Thành tựu kinh tế Việt Nam: Vì sao GDP tăng vượt bậc từ sau đổi mới?
Từ một nước nghèo, trải qua bao thăng trầm và thách thức Việt Nam đã vươn lên mạnh mẽ trở thành quốc gia tiệm cận mức thu nhập trung bình cao. Quy mô GDP tăng gấp 246 lần sau 3 thập kỷ, tổng thu nhập quốc gia theo giá thực tế sắp chạm mốc 10 triệu tỷ đồng.
Từ nước đói nghèo đến tiệm cận mức thu nhập trung bình cao
Nhiều năm nay, Ngân hàng Thế giới (WB) luôn đánh giá Việt Nam là một câu chuyện phát triển thành công, đặc biệt từ sau Đổi mới năm 1986. Những cải cách kinh tế từ năm 1986 kết hợp với xu hướng toàn cầu hóa đã nhanh chóng giúp Việt Nam vươn lên từ một trong những quốc gia nghèo trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp.
Dữ liệu từ Cục Thống kê cho thấy, quy mô GDP (tổng sản phẩm trong nước) năm 1990 của nước ta chỉ đạt 41.955 tỷ đồng và vượt 100.000 tỷ đồng vào năm 1992 (đạt 110.532 tỷ đồng). Đến năm 2006, GDP đã vượt mốc 1 triệu tỷ đồng.

GDP Việt Nam tăng vượt bậc từ sau đổi mới (năm 1986)
Tốc độ tăng trưởng GDP được duy trì ổn định qua các năm, bất chấp khủng hoảng kinh tế toàn cầu và những tác động nặng nề của đại dịch Covid-19. Đến năm 2023, quy mô GDP của Việt Nam lần đầu tiên trong lịch sử đạt khoảng 10,32 triệu tỷ đồng.
Với GDP đạt hơn 11,5 triệu tỷ đồng (476,3 tỷ USD), quy mô kinh tế của Việt Nam năm 2024 cao thứ tư trong khu vực Đông Nam Á và trở thành nền kinh tế lớn thứ 34 trên thế giới. Như vậy, sau 34 năm (từ 1990-2024), GDP của nước ta tăng gấp 274 lần.
Tương tự, tổng thu nhập quốc gia theo giá thực tế năm 1990 dừng ở con số 39.284 tỷ đồng, sau đó tăng lên 106.757 tỷ đồng vào năm 1992.
Năm 2006, tổng thu nhập quốc gia của nước ta đạt gần 1,04 triệu tỷ đồng. Đến năm 2023, tổng thu nhập quốc gia sắp chạm mốc 10 triệu tỷ đồng, khi đạt gần 9,79 triệu tỷ đồng, tăng gấp 249 lần với năm 1990.
Số liệu thống kê sơ bộ năm 2024 cũng cho thấy, thu nhập bình quân đầu người của nước ta đạt 4.700 USD/người/năm. Đây là con số ấn tượng so với năm 2023 (4.323 USD/người/năm) và có thể giúp người Việt sớm lọt thu nhập trung bình cao trên thế giới.
Mức thu nhập này cao gấp gần 55 lần so với con số 86 USD/người/năm vào năm 1988 - thời điểm Việt Nam bắt đầu mở cửa nền kinh tế, và gấp hơn 4,7 lần so với mức 1.000 USD/người vào năm 2007 - khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

Năm 1986, GDP chỉ đạt 8 tỷ USD, đến năm 2024 ước đạt 476,3 tỷ USD, gấp 59,5 lần
Theo ông Nguyễn Bích Lâm - nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê (nay là Cục Thống kê): Đổi mới trở thành động lực phát triển kinh tế trong suốt 4 thập kỷ qua, xóa bỏ cơ chế quản lý mệnh lệnh hành chính, bao cấp. Đất nước vượt qua khủng hoảng, Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế năng động, với quy mô GDP tăng vượt bậc. Năm 1986, quy mô GDP của nền kinh tế chỉ đạt 8 tỷ USD, đến năm 2024 ước đạt 476,3 tỷ USD, gấp 59,5 lần.
TS. Cấn Văn Lực - Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ đánh giá, giai đoạn 2006-2025 đánh dấu hành trình tăng trưởng bứt phá của Việt Nam, khi GDP bình quân đầu người tính theo USD danh nghĩa từ mức khoảng 700 USD năm 2006 vươn tới giả định 5.000 USD năm 2025, tức tăng hơn 7 lần trong chưa đầy hai thập kỷ, tương đương mức tăng bình quân hằng năm ở ngưỡng hai con số. Đây không chỉ là thành quả kinh tế đơn thuần, mà còn là minh chứng cho chủ trương đúng đắn của Đảng, sự điều hành quyết liệt của Chính phủ kiến tạo, Chính phủ hành động, và tinh thần đổi mới sáng tạo của cộng đồng doanh nghiệp.
Bứt phá để trở thành nước có thu nhập cao
Những số liệu trên cho thấy, kế thừa và kiên trì chính sách mở cửa hội nhập, với hàng loạt những quyết sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, đã có những tác động mạnh mẽ, giúp Việt Nam mở rộng cánh cửa tiếp cận với thông lệ kinh tế quốc tế. Từ một nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển, Việt Nam đã phát triển toàn diện trên mọi ngành nghề, lĩnh vực, nhanh chóng vươn lên, trở thành điểm sáng kinh tế trong khu vực và trên thế giới.

Chỉ 4 năm sau (năm 1989), Việt Nam đã xuất khẩu gạo, từ năm 1998 trở thành cường quốc gạo thế giới
Từ góc nhìn thể chế, GS.TS Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam nêu rõ, 4 nghị quyết của Bộ Chính trị vừa ban hành chính là 4 trụ cột then chốt: Phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân; xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển; đột phá khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; hội nhập và liên kết quốc tế. Bốn trụ cột mở ra không gian phát triển mới, mở ra cánh cửa hùng cường của Việt Nam.
Theo GS.TS Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam: Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân đặt ra những mục tiêu đầy tham vọng, thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong việc đưa kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, góp phần thúc đẩy Việt Nam phát triển nhanh, mạnh và bền vững.
“Khi triển khai Nghị quyết 68, Chính phủ đã nhấn mạnh không còn giới hạn nào đặt ra cho tư nhân. Thị trường cần được tự do cạnh tranh để phát huy năng lực của mình. Doanh nghiệp khởi nghiệp, sáng tạo cũng có nội dung ưu đãi riêng, mở ra cách tiếp cận mới, hỗ trợ mạnh mẽ hơn. Vấn đề còn lại là sự cố gắng, nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp tư nhân Việt Nam; sự đồng hành, hỗ trợ tối đa của các bộ, ngành, địa phương... để Nghị quyết 68 nhanh chóng đi vào cuộc sống nhằm hướng đến mục tiêu lớn nhất đến năm 2045, Việt Nam trở thành một nước phát triển, có thu nhập cao”, GS.TS Trần Đình Thiên khẳng định.

Nghị quyết 68 đưa kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng nhất của nền kinh tế
Theo TS. Cấn Văn Lực, nếu Việt Nam tăng trưởng GDP bình quân đạt 9%/năm giai đoạn 2026-2030 và 8% bình quân giai đoạn 2031-2045 thì đến cuối năm 2045, thu nhập quốc dân (GNI) bình quân đầu người ước đạt 22.600 USD.
Do đó, TS. Cấn Văn Lực cho rằng, Việt Nam không nhất thiết bằng mọi giá phải tăng trưởng hai con số trong 10-20 năm tới mà vẫn đạt được mục tiêu trở thành một nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045 như mục tiêu đề ra.
Theo TS. Cấn Văn Lực, Việt Nam cần phát triển nhanh nhưng đồng thời bền vững, bao trùm, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, chính trị - xã hội và môi trường. Cần kiểm soát lạm phát ở mức dưới 5%, thâm hụt ngân sách 4-4,5%, nợ công dưới 60% GDP trong mọi tình huống. Đặc biệt là không đánh đổi tăng trưởng kinh tế đơn thuần lấy ô nhiễm môi trường và bất ổn vĩ mô.
“Muốn vậy, cần đảm bảo các yếu tố về cơ cấu, chất lượng và hiệu quả trong tăng trưởng. Với cơ cấu nền kinh tế, ta cần tính toán làm sao tỷ trọng khu vực nông nghiệp ở mức độ hợp lý, vừa đảm bảo an ninh lương thực, vừa đảm bảo cả yếu tố chất lượng và giá trị. Khi đó, khu vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ nên được cân đối như thế nào cho phù hợp, cũng cần tính toán cụ thể”, TS. Cấn Văn Lực nhấn mạnh.
TS. Cấn Văn Lực cũng lưu ý, tăng trưởng cần đi đôi với kiểm soát rủi ro, cũng như cần nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi. Trong đó, cần đảm bảo thành công vận hành tỉnh, thành phố mới với mô hình chính quyền địa phương hai cấp, trong đó năng lực quản trị của người đứng đầu, năng lực thực thi của bộ máy công quyền và ứng dụng công nghệ, dữ liệu, đơn giản hóa quy trình, thủ tục tại các trung tâm hành chính công... là cấp thiết.