Thay đổi cách xét công nhận GS, PGS
Nghị quyết 71 đã phát những tín hiệu đầu tiên về việc thay đổi lại cách xét công nhận tiêu chuẩn chức danh Giáo sư, Phó giáo sư (GS, PGS) hiện nay. Thời gian tới, trường ÐH, viện nghiên cứu sẽ có vai trò quan trọng trong việc định hình chất lượng đội ngũ GS, PGS trên cả nước.

GS, PGS phải gắn với công việc nghiên cứu. Ảnh: HOA BAN
Khác biệt
Trao đổi với phóng viên, một chuyên gia chỉ ra những vấn đề gây nên tình trạng méo mó trong xét công nhận chức danh GS, PGS tại Việt Nam hiện nay.
Thứ nhất, thông lệ quốc tế, GS, PGS là vị trí việc làm, tương đương với vị trí trưởng bộ môn, giám đốc một viện nghiên cứu hay trưởng khoa. Khi ra khỏi trường, họ chỉ là tiến sĩ (danh vị mà họ phải thi cử, học hành, nghiên cứu mới đạt được). Từ GS trường ĐH tốp thấp, chuyển sang trường ĐH tốp cao hơn, họ phải phấn đấu lại từ đầu, không có chuyện nghiễm nhiên trở thành GS. Tại Việt Nam, GS, PGS do Nhà nước công nhận tiêu chuẩn, các trường ĐH bổ nhiệm. Việc bổ nhiệm của các trường không phụ thuộc vào vị trí việc làm và ai cũng thấy khi được công nhận GS, PGS đều rất “oách”, giống như giám đốc thời bao cấp (vì chỉ có doanh nghiệp quốc doanh). Trong khi ở Pháp, GS ĐH Bách khoa Paris phải khác GS ở một trường ĐH vùng sâu, vùng xa nào đó. GS, PGS của Việt Nam không gắn với thương hiệu trường ĐH mà là chức danh suốt đời do được Hội đồng Nhà nước đã công nhận.
Thứ hai, quy trình công nhận của Việt Nam tưởng xuôi, nhưng lại làm ngược với thế giới. Vị chuyên gia nêu ví dụ, tại Pháp, có Hội đồng Giáo sư (HĐGS) Nhà nước giống Việt Nam nhưng chỉ quy định “sàn” chung, trường ĐH, viện nghiên cứu từ sàn này sẽ yêu cầu cụ thể đối với vị trí việc làm của GS, PGS trong cơ sở. Quy trình của Việt Nam từ đề xuất của trường, viện, HĐGS ngành xét, HĐGS Nhà nước công nhận. Mỗi công đoạn có rơi rụng ít nhiều. Quy trình này mới xem tưởng xuôi, nhưng hóa ra ngược. Vì quyết định đạt tiêu chuẩn lại do HĐGS Nhà nước, HĐGS ngành. Với vai trò như thế, trường ĐH, viện nghiên cứu (HĐGS cơ sở) không có lí do mạnh tay loại bỏ ứng viên vì còn 2 cấp xét duyệt cao hơn.
Thứ ba, GS, PGS có vai trò trong nghiên cứu khoa học, đào tạo sau đại học. Nhưng ở Việt Nam, GS, PGS thường để “oai, oách”, để quản lí. Trong ngành Y tế sẽ thấy rõ điều này, khi giá khám bệnh của GS cao nhất rồi mới đến các danh xưng khác. Điều này tưởng vô lí nhưng vẫn tồn tại hợp lí trong thực tế. “Đây chính là cái méo mó của GS, PGS tại Việt Nam hiện nay”, vị chuyên gia nói.
Quy trình xét duyệt qua 3 vòng hiện nay ngoài những bất cập đã nêu còn có một số hạn chế khác như: thời gian dài, gây chậm trễ trong bố trí, bổ nhiệm nhân sự; thiếu minh bạch và khó dự đoán kết quả xét duyệt khi ứng viên đạt đủ tiêu chuẩn vẫn có thể không được công nhận chỉ vì không đủ phiếu tín nhiệm; nguy cơ tồn tại những yếu tố thiên kiến cá nhân hoặc cạnh tranh không lành mạnh trong quá trình bỏ phiếu. Do vậy, việc Nhà nước quy định khung tiêu chuẩn, còn các cơ sở giáo dục ÐH thực hiện quyền xem xét, công nhận và bổ nhiệm chức danh GS, PGS là xu hướng phù hợp với thông lệ quốc tế.
Tiếp đến, GS, PGS là của trường ĐH nhưng việc công nhận tiêu chuẩn lại do những người không liên quan xét duyệt. Vị chuyên gia lấy ví dụ, công nghệ thông tin là ngành phát triển nhất hiện tại ở Việt Nam, nhưng HĐGS ngành này phần lớn phải lấy những người có chuyên môn gốc từ Toán học. Không những thế, một số người đã 70 - 80 tuổi, độ tuổi không còn thích ứng được với sự phát triển của công nghệ thông tin vẫn ngồi trong hội đồng để xét duyệt những ứng viên trẻ, tiếp cận công nghệ nhanh hơn, công trình nghiên cứu mới hơn. Sự vô lí này vì sao vẫn tồn tại?
Cuối cùng, vị chuyên gia nói rằng, các GS, PGS nổi tiếng đang làm việc ở các trường ĐH nước ngoài, nếu về nước, muốn được bổ nhiệm vẫn phải qua quy trình xét duyệt của HĐGS Nhà nước, mỗi năm 1 lần. Với quy trình này, các trường ĐH muốn bổ nhiệm GS, PGS về nước làm việc cũng khó và ứng viên cũng rất “sợ” về.
Trách nhiệm của trường ÐH
Trước thực trạng trên, vị chuyên gia đề xuất sớm cho phép các trường ĐH được tự chủ hoàn toàn trong việc xét, công nhận, bổ nhiệm GS, PGS. Việc tự chủ này gắn với nghiên cứu, đào tạo sau ĐH. Từ phòng nghiên cứu, số lượng nghiên cứu sinh, kinh phí nghiên cứu, thu nhập của GS, PGS sẽ quy ra được mỗi cơ sở đào tạo cần có bao nhiêu vị trí việc làm GS, PGS. Nếu muốn nhiều hơn phải tăng các chỉ số trên. Khi đó, sẽ tránh được tình trạng “lạm phát” GS, PGS như nhiều người lo ngại. Đồng thời, GS, PGS là danh xưng gắn với thương hiệu một trường ĐH, không vàng thau lẫn lộn như hiện nay.
Vị chuyên gia này cho rằng, khi đó cũng sẽ tháo gỡ được vướng mắc trong thu hút GS, PGS nước ngoài về nước làm việc. “Trong hệ thống giáo dục đại học ở nhiều quốc gia phát triển, chức danh GS, PGS không mang tính “chứng nhận vĩnh viễn” mà là kết quả của một quy trình tuyển chọn khắt khe tại từng cơ sở”, ông nói.
Thực tế, HĐGS cơ sở như hiện nay dù là đơn vị trực tiếp sử dụng và trả lương cho giảng viên, nhưng lại không có toàn quyền quyết định trong việc xét công nhận chức danh GS, PGS.
Khả năng tiêu cực trong quá trình các cơ sở giáo dục ĐH xét công nhận, bổ nhiệm chức danh GS, PGS có thể xảy ra, tuy nhiên, trong bối cảnh thực hiện tự chủ ĐH, các cơ sở đào tạo phải cạnh tranh để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao. Mọi biểu hiện của sự cản trở, can thiệp thiếu khách quan đối với đội ngũ chuyên môn đều tiềm ẩn những rủi ro nghiêm trọng. Đó là sự mạo hiểm không chỉ đối với uy tín học thuật của nhà trường, mà còn đối với năng lực giữ chân và thu hút nhân tài. Đặc biệt trong một hệ sinh thái giáo dục ngày càng rộng mở, các giảng viên và nhà khoa học có nhiều sự lựa chọn, khi những cơ sở đại học khác xây dựng môi trường làm việc minh bạch, đề cao giá trị chuyên môn hơn và sẵn sàng bổ nhiệm, kèm theo chế độ đãi ngộ tốt.
Nghị quyết 71 nêu rõ: Bảo đảm quyền tự chủ đầy đủ, toàn diện cho các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp không phụ thuộc vào mức độ tự chủ tài chính. Hoàn thiện các quy định về biên chế, tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình tuyển dụng, bổ nhiệm đối với GS, PGS và các chức danh giảng viên khác phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn Việt Nam, trên cơ sở đó giao các cơ sở giáo dục ÐH, giáo dục nghề nghiệp tự quyết định và thực hiện phù hợp với điều kiện của nhà trường, quyết định tuyển dụng, thuê giảng viên, bổ nhiệm chức danh lãnh đạo, quản lí đối với người giỏi từ nước ngoài.
Thực tiễn từ thị trường lao động hàn lâm, ở học vị tiến sĩ đã cho thấy rõ xu hướng này. Việc để xảy ra tình trạng nhiều tiến sĩ cùng rời khỏi một cơ sở giáo dục trong thời gian ngắn sẽ là tín hiệu đáng lưu tâm, buộc lãnh đạo nhà trường phải xem xét lại định hướng phát triển nguồn nhân lực và chiến lược quản trị học thuật của mình một cách nghiêm túc và minh bạch.
GS. TS Chử Đức Trình, Hiệu trưởng Trường ĐH Công nghệ (ĐH Quốc gia Hà Nội) đồng tình với quan điểm xét công nhận chức danh GS, PGS phải gắn với thông lệ thế giới phổ biến. GS là vị trí làm việc, vị trí công tác. Khi hết việc, không cần vị trí GS nữa thì người đó sẽ ra khỏi trường. Nhưng trong bối cảnh của Việt Nam hiện nay, GS Chử Đức Trình cho rằng, phân quyền như thế nào là bài toán khó. Ông đề xuất nên có một bộ tiêu chuẩn chung, thậm chí Bộ GD&ĐT nên có cổng thông tin để ứng viên khai, có sự xác nhận của thủ trưởng các đơn vị. Hệ thống đó có tác dụng phân loại về bài báo khoa học dựa trên những tiêu chí đã được đưa ra. Từ đó các trường tham chiếu, đưa ra tiêu chuẩn công nhận, bổ nhiệm và không thấp hơn chuẩn của cả nước. Khi đó, Nhà nước giữ vai trò ban hành khung và giám sát nhằm nâng cao hiệu quả và tính thống nhất trong công nhận chức danh học thuật.
Nguồn Tiền Phong: https://tienphong.vn/thay-doi-cach-xet-cong-nhan-gs-pgs-post1778146.tpo