Thay đổi tư duy để thích ứng - Kinh tế nông nghiệp ĐBSCL hướng về 'con đường lớn'

Hạ tầng nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế, thiếu hạ tầng logistics phục vụ kinh tế nông nghiệp, tư duy manh mún, mùa vụ của một bộ phận nông dân vẫn còn là một thách thức lớn cho sự liên kết bền vững giữa sản xuất và tiêu thụ.

Thời gian qua, tiềm năng lợi thế kinh tế nông nghiệp ĐBSCL đã dần được khai thác có hiệu quả. Từ đó, trong năm 2025, vùng đã đạt được những thành tựu vượt bậc, đóng góp tỷ lệ lớn vào tăng trưởng nông nghiệp cả nước; góp phần bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và xuất khẩu. Tuy nhiên, cùng với những nỗ lực, cố gắng của cả hệ thống, vẫn còn đó, những thách thức, khó khăn. Trong đó, cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế, thiếu hạ tầng logistics phục vụ kinh tế nông nghiệp. Tư duy manh mún, mùa vụ của một bộ phận nông dân vẫn còn là một thách thức lớn cho sự liên kết bền vững giữa sản xuất và tiêu thụ.

Cánh đồng lúa ở ĐBSCL, vùng sản xuất lúa gạo trọng điểm của cả nước

Cánh đồng lúa ở ĐBSCL, vùng sản xuất lúa gạo trọng điểm của cả nước

Với diện tích cây ăn trái khoảng trên 100.000 ha, sản lượng hàng năm gần 1,2 triệu tấn, Cần Thơ đang đóng góp quan trọng vào xuất khẩu trái cây của Việt Nam. Trong thời gian qua, người dân đã từng bước hướng sản xuất theo quy trình an toàn, đặc biệt là theo hướng VietGAP, GlobalGAP để nâng cao chất lượng sản phẩm. Đến nay, thành phố đã cấp 477 mã số vùng trồng, tổng diện tích hơn 6.270 ha, với 6.320 hộ dân, diện tích được cấp mã số chủ yếu phục vụ xuất khẩu. Để trái cây của Cần Thơ xâm nhập vào các thị trường xuất khẩu trọng điểm như Trung Quốc, Hoa Kỳ, EU, ASEAN và Nhật Bản... ngành nông nghiệp Cần Thơ đang tổ chức lại sản xuất, nâng cao năng lực cho các HTX, tổ hợp tác và các đối tác tham gia phát triển liên kết chuỗi giá trị.

HTX Trạng Tí Garden tại Cần Thơ vừa được cấp giấy chứng nhận GlobalGAP cho vùng trồng thanh nhãn 20ha. Theo ông Đặng Thanh Vũ, thành viên HTX, với việc được cấp chứng nhận GlobalGAP cho vùng trồng thanh nhãn là động lực để HTX nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng các quy định của nước nhập khẩu về an toàn thực phẩm, kiểm dịch thực vật. “Khi làm theo tiêu chuẩn những loại thuốc BVTV chỉ được sử dụng trong danh mục, không được sử dụng ngoài danh mục. Công ty bao tiêu giá do đó những nhà vườn được công nhận giá làm sản phẩm GlobalGAP sẽ mua giá cao hơn, từ đó bù lại nông dân sẽ có lãi hơn”, ông Vũ chia sẻ.

Vườn thanh nhãn của Cần Thơ trồng theo tiêu chuẩn an toàn để xuất khẩu sang các thị trường

Vườn thanh nhãn của Cần Thơ trồng theo tiêu chuẩn an toàn để xuất khẩu sang các thị trường

Còn ông Trần Phước Sơn, Giám đốc Hợp tác xã Trạng Tí Garden cho biết, quá trình canh tác người dân đều tuân thủ nghiêm ngặt tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm; sản phẩm làm ra phải đáp ứng tiêu chuẩn người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. “Quy trình làm GlobalGAP tuy có cực khổ cùng nhiều bỡ ngỡ với người dân so với cách sản xuất truyền thống, nhưng GlobalGAP với những quy chuẩn khắt khe sẽ tạo ra quyết tâm ngay từ đầu, giúp HTX tạo ra thanh nhãn đạt chất lượng”, ông Sơn nhấn mạnh.

Sản xuất xanh, hướng đi bền vững của nông nghiệp ĐBSCL

Sản xuất xanh, hướng đi bền vững của nông nghiệp ĐBSCL

Không chỉ trong sản xuất cây ăn quả, việc thay đổi, áp dụng những tiến bộ khoa học cũng dần thay đổi cách nghĩ, cách làm của người nông dân miền Tây. Trên cánh đồng sản xuất lúa của HTX Tân Thuận, tỉnh An Giang, cánh đồng canh tác lúa theo phương pháp tưới ngập khô xen kẽ (AWD) giúp giảm lượng giống gieo sạ, giảm lượng phân bón và giúp thoát các chất độc hại trong môi trường đất, nước; cây lúa phát triển tốt hơn. Đây không chỉ là giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu tại vùng ĐBSCL, mà còn mở ra cơ hội để người dân ứng dụng công nghệ vào sản xuất, hướng tới phát triển bền vững ngành hàng lúa gạo. Trong thực tiễn canh tác.

Ông Nguyễn Thanh Tuấn, HTX Tân Thuận cho biết, chương trình ướt khô xen kẽ để thực hiện chương trình giảm phát thải khí nhà kính năng suất rất là cao. Làm ướt khô xen kẽ thì mức độ đầu tư giảm 10kg giống/ha, còn phân thuốc giảm từ 25 - 30%.

Để ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu, rõ ràng tư duy sản xuất của người nông dân đã có sự chuyển biến từ "tập trung sản xuất" sang "nông nghiệp đa giá trị", kết hợp với điều kiện thích ứng. Trong đó, việc ứng dụng khoa học công nghệ, minh bạch hóa quy trình, tái cấu trúc cây trồng vật nuôi như các mô hình lúa - tôm, cây ăn quả, cá tra công nghệ cao v.v.. để tạo ra sản phẩm chất lượng đã được thể hiện và có những “trái ngọt”. Năm 2025, sản xuất nông nghiệp của Việt Nam và ĐBSCL lại đón nhận tin vui. Gạo Ông Cua ST25 của Anh hùng Lao động Hồ Quang Cua lần thứ ba đạt giải Nhất cuộc thi “Gạo ngon nhất thế giới”.

Gạo đạt tiêu chuẩn xuất sang thị trường Nhật Bản.

Gạo đạt tiêu chuẩn xuất sang thị trường Nhật Bản.

Với việc liên tục nằm trong nhóm những loại gạo ngon nhất thế giới qua nhiều năm, gạo Ông Cua ST25 tiếp tục khẳng định vị thế tiên phong của Việt Nam trên bản đồ gạo thế giới. Đây chính là sự điển hình trong thay đổi tư duy sản xuất, là minh chứng rõ nét nhất cho hành trình miệt mài, kiên trì của vị kỹ sư nông nghiệp miền Tây theo đuổi hành trình trồng lúa an toàn. “Chúng tôi rất vui bởi sau bao năm công tác, nghiên cứu, cuối cùng ước nguyện của việc sản phẩm gạo Việt được ưa chuộng rất lớn, rất mạnh. Sự đón nhận sản phẩm gạo Việt của bà con, người tiêu dùng là điều rất đáng mừng”, Anh hùng Lao động Hồ Quang Cua thông tin.

Trước những tác động của biến đổi khí hậu ở vùng ĐSBCL, tư duy sản xuất đang được thay thế bằng quan điểm “sống hài hòa với tự nhiên”. Nông nghiệp không chỉ là làm ra sản phẩm, mà còn là giữ gìn hệ sinh thái, bảo vệ nguồn nước, đất đai và đa dạng sinh học. Tinh thần “thuận thiên” để phát triển bền vững đang trở thành hướng đi cho nông nghiệp vùng ĐBSCL.

Ông Lê Thanh Tùng, Phó Chủ tịch thường trực kiêm Tổng thư ký Hiệp hội ngành hàng lúa gạo Việt Nam (VIETRISA) cho biết, điểm sáng của nông nghiệp sinh thái chính là Đề án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao, phát thải thấp đang triển khai ở các địa phương trong vùng. Đề án này chắc chắn tiếp tục triển khai mạnh mẽ trong năm 2026 và các năm tới, với mục tiêu nhân rộng mô hình liên kết sản xuất, ứng dụng công nghệ số (AI, IoT, MRV), tích hợp hệ sinh thái.

“Đề án phát triển 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, bền vững, giảm phát thải và gắn với tăng trưởng xanh của vùng ĐBSCL là một trong những giải pháp để sản xuất lúa vừa thích ứng với BĐKH, vừa không làm cho BĐKH tiêu cực thêm và vừa giữ được sinh kế của người dân. Mục tiêu lớn nhất của đề án là chúng ta sẽ làm những điều đó, nếu không lúc thay đổi về BĐKH thì chúng ta sẽ thay đổi theo và chúng ta sẽ lệch đi mục tiêu về sản xuất, về an ninh lương thực”, ông Tùng nhấn mạnh.

Nông nghiệp ĐBSCL đang khoác lên mình một diện mạo mới xanh hơn, bền vững hơn.

Nông nghiệp ĐBSCL đang khoác lên mình một diện mạo mới xanh hơn, bền vững hơn.

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt, nông nghiệp sinh thái không chỉ là xu hướng tất yếu mà còn là con đường chiến lược để đảm bảo sinh kế, giảm phát thải và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên. Các mô hình nông nghiệp sinh thái tại ĐBSCL như lúa tôm, lúa rừng, tôm rừng… đã chứng minh sự thích ứng và thay đổi trong tư duy sản xuất; mang lại hiệu quả vượt trội khi vừa có lợi ích kinh tế, vừa giúp phục hồi hệ sinh thái và tăng khả năng chống chịu trước thiên tai; góp phần đa dạng hóa sản phẩm và thị trường.

TS Trần Văn Thể, Phó Viện trưởng Viện Môi trường Nông nghiệp, Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam nhấn mạnh, nông nghiệp sinh thái mang lại giá trị cốt lõi là cải thiện thu nhập và sinh kế nông dân. Nâng cao khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu. Tạo ra sản phẩm xanh sạch, đáp ứng nhu cầu của thị trường toàn cầu. TS Trần Văn Thể cho rằng trong gian đoạn tới, cần hoàn thiện chính sách, khuyến khích đầu tư công – tư và mở rộng kênh tài chính xanh. Cùng với đó, tập trung đào tạo, tập huấn kỹ thuật cho nông dân và cán bộ khuyến nông. Phát triển thị trường, thương hiệu và chuỗi giá trị sản phẩm sinh thái; đặt người dân vào trung tâm chuyển đổi, thay đổi nhận thức và hành động từ gốc.

“Nông nghiệp sinh thái có vai trò quan trọng then chốt, góp phần vào thực hiện hóa cam kết nỗ lực của Việt Nam trong thực hiện mục tiêu giảm phát thải ròng bằng “0”, carbon thấp, bảo tồn và bảo vệ đa dạng sinh học, chúng tôi cho rằng đây là những thông điệp rất rõ ràng bởi chúng ta phải đóng góp vào phát thải nhà kính. Cái thông điệp rất cần thiết là đặt người dân vào trung tâm, sự thay đổi về nhận thức, tư duy và hành động của người dân, cộng đồng doanh nghiệp, sự cam kết mạnh mẽ của các cơ quan đối tác, địa phương có vai trò quyết định đến thành công, nhân rộng các mô hình sinh thái”, TS Thể nhấn mạnh.

Gạo Ông Cua ST25 tiếp tục khẳng định vị thế tiên phong của Việt Nam trên bản đồ gạo thế giới.

Gạo Ông Cua ST25 tiếp tục khẳng định vị thế tiên phong của Việt Nam trên bản đồ gạo thế giới.

Nông nghiệp ĐBSCL đang khoác lên mình một diện mạo mới xanh hơn, bền vững hơn. Trong đó, nhiều mô hình sản xuất triển khai mang lại hiệu quả như lúa tôm, lúa hữu cơ, lúa chất lượng cao, kết hợp trái cây đặc sản (xoài, sầu riêng), thủy sản công nghệ cao (cá tra tuần hoàn) và ứng dụng nông nghiệp 4.0 đến các chương trình bảo tồn đa dạng sinh học và thích ứng dựa vào thiên nhiên. Điểm chung của các mô hình này là phát huy tri thức bản địa, lồng ghép khoa học hiện đại và thích ứng với từng vùng sinh thái cụ thể.

Khu vực trọng điểm sản xuất ĐBSCL đang cho thấy vai trò trong chuyển đổi nông nghiệp theo hướng sinh thái, bền vững khi đã đưa ra cam kết về phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050; đồng thời giảm 30% phát thải khí nhà kính và khí mê tan vào năm 2030. Đây là những mục tiêu đặt ra cho năm 2026 và các năm tiếp theo; không chỉ thể hiện trách nhiệm quốc tế, mà còn phản ánh quyết tâm của Việt Nam, thay đổi trong tư duy của từng người nông dân trong việc xây dựng một nền nông nghiệp xanh, có khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu.

Thanh Tùng/VOV-ĐBSCL

Nguồn VOV: https://vov.vn/kinh-te/thay-doi-tu-duy-de-thich-ung-kinh-te-nong-nghiep-dbscl-huong-ve-con-duong-lon-post1256769.vov