Thấy gì qua kỳ thi tuyển sinh lớp 10 công lập năm 2020 (phần 2)
GDVN- Có cần xem xét trách nhiệm những địa phương, trường trung học cơ sở mà học sinh trúng tuyển vào lớp 10 với điểm dưới trung bình?
(Tiếp theo phần 1)
Thứ hai, giáo dục trong mối quan hệ tổng thể
Từng có dự báo vào năm 2006, rằng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Mốc thời gian đó nay dịch chuyển đến năm 2030.
Cũng từng có ý kiến, rằng chúng ta đã “Từng bước đưa nền giáo dục nước nhà phát triển sánh ngang với nền giáo dục tiên tiến”. [3]
Một nền công nghiệp phát triển không đạt kỳ vọng cũng có nghĩa là phát triển kinh tế chưa đạt yêu cầu thì giáo dục liệu có phải là ngoại lệ, giáo dục đã, đang hay sẽ “phát triển sánh ngang với nền giáo dục tiên tiến”?
“Thành quả” dễ nhận thấy là chúng ta đã hình thành và củng cố trong học sinh, cha mẹ học sinh, gia đình và xã hội tâm lý học hết chương trình phổ thông phải vào đại học.
“Chúng ta” ở đây không phải một mình ngành giáo dục mà còn bao gồm sự tham gia của các bộ phận thuộc hệ thống chính trị như truyền thông, văn hóa, tổ chức, nội vụ,…
Thi tuyển một vị trí công chức, viên chức cơ quan nhà nước cần có nhiều loại bằng cấp, chứng chỉ là yêu cầu của ngành Nội vụ.
Đề bạt, luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ phải có thêm các bằng cấp khác (quản lý nhà nước, chứng nhận chuyên viên,…) là yêu cầu của bên Tổ chức.
Không trúng tuyển vào đại học luôn là gánh nặng tâm lý với bộ phận đông đảo học sinh và phụ huynh.
Phải thừa nhận chúng ta đã không đạt được kỳ vọng về một đất nước công nghiệp vào năm 2020, vậy kỳ vọng một “nền giáo dục tiên tiến” có rơi vào tình trạng tương tự?
Theo Luật Giáo dục, cấp mầm non (gồm hai bậc học giáo dục nhà trẻ và giáo dục mẫu giáo) là “giáo dục phổ cập”, với cấp phổ thông bậc tiểu học là “giáo dục bắt buộc”, bậc trung học cơ sở là “giáo dục phổ cập”, bậc trung học phổ thông không “phổ cập” và cũng không “bắt buộc”.
Phổ cập giáo dục là quá trình tổ chức hoạt động giáo dục để mọi công dân trong độ tuổi đều được học tập và đạt đến trình độ học vấn nhất định theo quy định của pháp luật.
Giáo dục bắt buộc là giáo dục mà mọi công dân trong độ tuổi quy định bắt buộc phải học tập để đạt được trình độ học vấn tối thiểu theo quy định của pháp luật và được Nhà nước bảo đảm điều kiện để thực hiện.
Khoản 2, điều 17 “Đầu tư cho giáo dục” trong Luật Giáo dục 2019 quy định:
“Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; ưu tiên đầu tư cho phổ cập giáo dục, phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, địa bàn có khu công nghiệp”.
Luật Giáo dục có điều khoản: “Mọi công dân trong độ tuổi quy định có nghĩa vụ học tập để thực hiện phổ cập giáo dục và hoàn thành giáo dục bắt buộc” (Khoản 3, điều 14).
Một khi luật đã quy định công dân “có nghĩa vụ học tập để thực hiện phổ cập giáo dục” thì việc không hoàn thành “phổ cập giáo dục” bậc trung học cơ sở là vi phạm pháp luật.
Hai đối tượng liên quan đến việc “không hoàn thành phổ cập giáo dục” bậc trung học cơ sở là người học và cơ quan quản lý giáo dục.
Bài viết này không bàn đến đối tượng người học.
Thấy gì qua kỳ thi tuyển sinh lớp 10 công lập năm 2020 (phần 1)
Với cơ quan quản lý giáo dục, nếu địa phương để cho học sinh trung học cơ sở không có bằng tốt nghiệp là gián tiếp phạm luật (bởi luật quy định “người học” chứ không phải cơ quan quản lý) và phải chăng đây là nguyên nhân khiến tỷ lệ tốt nghiệp trung học cơ sở khắp các địa phương luôn ở mức rất cao, có nơi như Quảng Ninh đạt 99,6%. [4]
Tỷ lệ tốt nghiệp trung học cơ sở bị đẩy lên cao chót vót nhưng chất lượng không tương xứng không chỉ phản ánh năng lực học sinh mà còn cho thấy cung cách điều hành, quản lý giáo dục bị áp lực thế nào từ quy định trong Luật Giáo dục.
Trong khi luật quy định phải “ưu tiên đầu tư cho phổ cập giáo dục, phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, địa bàn có khu công nghiệp…” thì phải hiểu thế nào về phát biểu của một lãnh đạo sở, rằng “ở khu vực miền núi, học sinh đến trường đã là thành công”?
Thực tế cho thấy cứ sau kỳ nghỉ hè, giáo viên không ít trường miền núi lại thấp thỏm mong chờ học sinh đến trường, có nơi thày cô phải đến tận gia đình vận động học trò đi học.
Báo Dân tộc và Phát triển, cơ quan ngôn luận của Ủy ban Dân tộc đặt vấn đề:
“Giải pháp nào cho vấn nạn học sinh dân tộc thiểu số bỏ học?”;
“Cần có giải pháp hữu hiệu để hạn chế tình trạng học sinh dân tộc thiểu số bỏ học”.
Liệu có thể áp dụng quy định “nghĩa vụ phổ cập giáo dục trung học cơ sở” để buộc học sinh dân tộc thiểu số không được bỏ học?
Luật ban hành xa rời thực tế, không thể áp dụng là lỗi của cơ quan soạn thảo, ban hành hay còn cũng có lỗi của cơ quan thực thi?
Như đã trích dẫn, học sinh trung học cơ sở tốt nghiệp với tỷ lệ cao chót vót bởi bậc học này không phải thi tốt nghiệp mà do Phòng Giáo dục huyện xét duyệt.
Vậy có cần xem xét trách nhiệm những địa phương, trường trung học cơ sở mà học sinh trúng tuyển vào lớp 10 với điểm dưới trung bình?
Câu hỏi này chắc chắn không có câu trả lời bởi nếu thế Hà Nội sẽ là 30%, Thành phố Hồ Chí Minh là 50% và có tỉnh sẽ là gần 100%.
Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là những địa phương “giàu” nhất cả nước, song “có thực” liệu có thể “vực được đạo”?
Thứ ba, chủ trương hướng nghiệp và phân luồng trong giáo dục
Phân luồng giáo dục nhắm mục đích “học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở, trung học phổ thông tiếp tục học ở cấp học, trình độ cao hơn hoặc theo học giáo dục nghề nghiệp hoặc tham gia lao động phù hợp với năng lực, điều kiện cụ thể của cá nhân và nhu cầu xã hội…” (Khoản 2, điều 9 Luật Giáo dục).
Một thống kê cho thấy tại Thành phố Hồ Chí Minh chỉ có 1,33% học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở chuyển sang học nghề, tại Quảng Ninh, tỷ lệ này là 15%... [4]
“Giáo dục … chầu rìa” và “Chầu rìa … giáo dục” (2)
Một bài viết trên Nhandan.com.vn cho biết:
“Theo mục tiêu của ngành giáo dục, mỗi năm phải phân luồng được khoảng 30% học sinh sau tốt nghiệp THCS theo học các trường nghề, 70% còn lại sẽ vào lớp 10 khối THPT.
Nhưng trên thực tế, trong nhiều năm qua, số học sinh tốt nghiệp THCS tham gia học nghề chưa đến 10%”. [5]
Vì sao có tới 81% học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở tiếp tục theo học bậc trung học phổ thông, vì sao việc phân luồng thất bại?
Câu trả lời nằm ở chỗ nhà nước vẫn bao cấp giáo dục bậc trung học phổ thông.
Người viết đã nhiều lần kiến nghị tập trung nguồn lực cho giáo dục mầm non, tiểu học và trung học cơ sở.
Vẫn là 20% tổng chi ngân sách cho giáo dục nhưng tập trung cho giáo dục bắt buộc và giáo dục phổ cập, điều này hoàn toàn phù hợp với quy định trong Luật Giáo dục “Nhà nước ưu tiên đầu tư cho phổ cập giáo dục”.
Luật Giáo dục không hề đề cập chuyện “nhà nước ưu tiên đầu tư cho bậc trung học phổ thông".
Cần phải mạnh dạn điều chỉnh chính sách giáo dục theo hướng giáo dục bắt buộc (tiểu học) và giáo dục phổ cập (mầm non và trung học cơ sở) được nhà nước bao cấp toàn bộ, bậc trung học phổ thông sẽ tự chủ toàn diện.
Làm được việc này, các gia đình khó khăn về kinh tế sẽ không phải lo chuyện kinh phí học tập cho con cái ít nhất là 9 năm học (từ lớp 1 đến lớp 9), nếu cộng thêm cấp mầm non thì có thể là khoảng 10 – 15 năm.
Nếu vào học trung học phổ thông là chuẩn bị hướng nghiệp cho tương lai thì việc phải trả tiền không thể xem là bị bỏ rơi.
Mặt khác, việc phải chi trả cho bậc học này sẽ khiến nhiều gia đình và học sinh tự động cân nhắc việc theo học trung học phổ thông hay chuyển sang học nghề, học cao đẳng hoặc đi làm.
Nếu không tập trung nguồn lực cho bậc học trung học cơ sở thì đầu vào các bậc học, cấp học cao hơn (trung học phổ thông, cao đẳng, đại học) sẽ vẫn chỉ là lứa học sinh với kết quả học tập dưới trung bình.
Đây thực sự là điều cần phải báo động vì cho đến nay, khá nhiều doanh nghiệp nước ngoài ngần ngại đầu tư vào Việt Nam vì trình độ lao động có tay nghề cao không đáp ứng.
Giáo dục không chỉ cần đổi mới toàn diện mà thực sự cần một cuộc cách mạng./.
Tài liệu tham khảo:
[1] https://laodong.vn/giao-duc/cong-bo-diem-thi-diem-chuan-lop-10-tinh-ha-nam-nam-2020
[2] https://laodong.vn/giao-duc/ha-noi-ha-diem-chuan-vao-lop-10-cua-cac-truong-thpt-tren-dia-ban-825709.ldo
[3] https://www.qdnd.vn/chinh-tri/tin-tuc-su-kien/tung-buoc-dua-nen-giao-duc-nuoc-nha-phat-trien-sanh-ngang-voi-nen-giao-duc-tien-tien-602926
[4] https://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/tuyen-sinh/tim-huong-di-hieu-qua-cho-phan-luong-sau-thcs-593832.html
[5] https://nhandan.com.vn/tin-tuc-giao-duc/can-giai-phap-dot-pha-cho-phan-luong-giao-duc-355807