Thể chế mở, nhân tài về: Bài học từ làn sóng 'Việt kiều Đông Âu'

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan khẳng định thành công của những doanh nhân từng là Việt kiều Đông Âu trở về lập nghiệp như Phạm Nhật Vượng, Nguyễn Thị Phương Thảo, Nguyễn Đăng Quang… là minh chứng rõ nét cho sức mạnh của thể chế.

LTS: Ngày 6/7/2025, Văn phòng Trung ương Đảng thông báo chỉ đạo “nóng” của Tổng Bí thư Tô Lâm: giao Bộ Nội vụ chủ trì, trong vòng hai tháng phải trình cơ chế đãi ngộ “vượt khung” để thu hút ít nhất 100 chuyên gia hàng đầu về nước. Trước đó, tại Hội nghị sơ kết 6 tháng đầu năm của Ban Chỉ đạo Trung ương về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, Tổng Bí thư nhấn mạnh yêu cầu xây dựng cơ chế đặc biệt cho đội ngũ “tổng công trình sư”, “kiến trúc sư trưởng” - những người giữ vai trò then chốt trong các lĩnh vực mũi nhọn như AI, bán dẫn, vật liệu mới.

Làm thế nào để các chỉ đạo của Tổng Bí thư thành hiện thực, nhằm phát triển đất nước? Tạp chí VietTimes mở diễn đàn “MỜI GỌI VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN TÀI”.

Sau bài viết “Nhờ đổi mới thể chế, Việt Nam có thế hệ doanh nhân ồ ạt trở về nay thành tỷ phú đô la”, VietTimes có cuộc trò chuyện với chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan để gợi nhắc những bài học thể chế từ chính sách và làn sóng doanh nhân tiên phong trở về nước lập nghiệp đầu thập niên 90, khởi nguồn từ nhóm “Việt kiều Đông Âu”. Chính những đổi mới ấy đã mở đường cho sự hình thành của các tên tuổi lớn như Vingroup, Masan, VietJet, Hòa Phát…

Ba thập niên sau, câu hỏi đặt ra: Liệu Việt Nam đang đứng trước cơ hội “Đổi mới lần hai”? Và thể chế hôm nay cần làm gì để tiếp tục trở thành bệ phóng cho sự hội tụ và trỗi dậy của nhân tài - đặc biệt là 100 chuyên gia hàng đầu toàn cầu được kỳ vọng sẽ về nước khởi nghiệp, kiến tạo và dẫn dắt?

Hai yếu tố “lôi kéo” nhóm doanh nhân “Việt kiều Đông Âu” ồ ạt trở về

- Luật Doanh nghiệp năm 1999 được xem là một bước ngoặt thể chế quan trọng trong cải cách kinh tế Việt Nam. Dưới góc nhìn của một chuyên gia từng tham gia soạn thảo luật, bà đánh giá tác động của văn bản này như thế nào đối với xu hướng trở về đầu tư của doanh nhân Việt kiều, đặc biệt là từ Đông Âu vào cuối thập niên 1990?

 Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan

- Đúng là Luật Doanh nghiệp được ban hành năm 1999 là một bước ngoặt rất lớn trong tiến trình cải cách thể chế kinh tế của Việt Nam, đặc biệt trong việc khơi thông dòng chảy của khu vực tư nhân, bao gồm cả cộng đồng doanh nhân Việt kiều. Tuy nhiên, để hiểu rõ tác động của cải cách này, cần nhìn lại bối cảnh những năm đầu thập niên 1990.

Sau khi Việt Nam bắt đầu công cuộc Đổi mới, Quốc hội đã thông qua hai văn bản là Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân. Đây là những bước đi đầu tiên công nhận sự tồn tại hợp pháp của kinh tế tư nhân.

Nhưng trên thực tế, hai luật này vẫn duy trì tư duy quản lý cũ, nghĩa là doanh nghiệp muốn hoạt động phải xin phép, chỉ được làm những lĩnh vực mà luật cho phép. Điều này tạo ra rào cản không nhỏ đối với tinh thần khởi nghiệp, đặc biệt là với cộng đồng người Việt ở nước ngoài có tư duy kinh tế năng động hơn, đã quen với môi trường kinh doanh tự do hơn.

Trong khi đó, nhiều người Việt sinh sống ở các nước Đông Âu và Liên Xô cũ lại nhanh chóng tận dụng cơ hội cải cách ở các quốc gia sở tại - nơi đang tư nhân hóa mạnh mẽ và chuyển sang kinh tế thị trường nhanh hơn Việt Nam. Người Việt tại Ba Lan thậm chí được đánh giá là nhanh nhạy hơn cả người bản địa trong việc thành lập công ty và mở rộng hoạt động kinh doanh.

Tôi còn nhớ thời kỳ đó, một số mặt hàng rất đơn giản như mì ăn liền, radio, cassette cũ (băng cát sét) của miền Nam được chuyển sang Đông Âu và tiêu thụ rất mạnh. Ban đầu là mang đi bán lẻ, sau đó là nhập khẩu số lượng lớn, rồi tiến tới lắp đặt cả dây chuyền sản xuất ngay tại chỗ. Có thể nói, người Việt tại Đông Âu và Liên Xô đã hình thành một thế hệ doanh nhân “khởi nghiệp” trong bối cảnh cải cách toàn cầu.

Tuy nhiên, việc họ quay trở về Việt Nam để đầu tư, để thành lập công ty một cách chính thức thì vẫn còn bị hạn chế do môi trường pháp lý trong nước chưa thật sự thông thoáng.

Phải đến năm 1999, khi Luật Doanh nghiệp mới được ban hành và chính thức có hiệu lực từ năm 2000 thì khung khổ pháp lý mới thực sự tạo ra một bước ngoặt. Luật này lần đầu tiên quy định rõ nguyên tắc: người dân có quyền tự do kinh doanh trong tất cả lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Đây là một bước tiến về tư duy quản lý nhà nước, từ “xin - cho” sang “đăng ký - tự chịu trách nhiệm”.

Không chỉ vậy, luật mới còn cho phép doanh nghiệp được mở rộng hoạt động trên toàn quốc, rút ngắn thủ tục hành chính, khuyến khích sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, và đặc biệt là mở rộng cánh cửa cho Việt kiều trở về đầu tư trong nước. Từ thời điểm đó, làn sóng doanh nhân Việt kiều ở nước ngoài quay về không còn mang tính đơn lẻ mà bắt đầu có tổ chức hơn. Họ thành lập doanh nghiệp, mở nhà máy, xây dựng các mối liên kết với doanh nghiệp trong nước và hình thành các hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài để cùng phát triển.

Có thể nói, Luật Doanh nghiệp năm 1999 không chỉ giải phóng năng lực sản xuất trong nước, mà còn tạo ra một cú hích lớn để kết nối nguồn lực từ bên ngoài, đặc biệt là chất xám, vốn và kinh nghiệm quản trị của người Việt toàn cầu vào tiến trình phát triển của nền kinh tế Việt Nam.

- Sự trở về và thành công của các “Việt kiều Đông Âu” như ông Phạm Nhật Vượng, bà Nguyễn Thị Phương Thảo, ông Nguyễn Đăng Quang… có thể xem là minh chứng rõ nét cho việc thể chế tốt có thể “gọi” được nhân tài từ khắp nơi hội tụ về, thưa bà?

- Chắc chắn là như vậy. Những tỷ phú Việt đầu tiên thành công mà chúng ta nhắc đến là ông Phạm Nhật Vượng, bà Nguyễn Thị Phương Thảo, ông Nguyễn Đăng Quang hay ông Trần Đình Long - phần lớn đều trưởng thành trong môi trường kinh tế chuyển đổi tại Liên Xô cũ và Đông Âu. Cũng có những doanh nhân Việt kiều dù chưa được xếp vào hàng tỷ phú, nhưng họ vẫn sở hữu tầm vóc và năng lực không hề thua kém, với khả năng kinh doanh linh hoạt, sắc sảo và hoạt động hiệu quả trên nhiều mặt trận kinh tế.

 "Thành công của những doanh nhân Việt kiều Đông Âu như Phạm Nhật Vượng, Nguyễn Thị Phương Thảo, Nguyễn Đăng Quang... là minh chứng rõ nét cho sức mạnh của thể chế".

"Thành công của những doanh nhân Việt kiều Đông Âu như Phạm Nhật Vượng, Nguyễn Thị Phương Thảo, Nguyễn Đăng Quang... là minh chứng rõ nét cho sức mạnh của thể chế".

Điều đáng quý tại các quốc gia đó, họ không chỉ tích lũy được vốn liếng kinh doanh, mà quan trọng hơn là tiếp cận được mô hình thị trường, tư duy doanh nghiệp hiện đại và hình thành được bản lĩnh thương trường trong môi trường cạnh tranh thực sự.

Khi trở về Việt Nam, họ mang theo vốn, kinh nghiệm, tầm nhìn quốc tế và một tinh thần rất mạnh mẽ để bắt tay ngay vào các dự án đầu tư lớn trong bối cảnh thể chế kinh tế trong nước đã có những thay đổi căn bản nhờ Luật Doanh nghiệp năm 1999 và Luật Đầu tư nước ngoài được sửa đổi vào năm 2002. Đây chính là “cánh cửa mở” để những người Việt tài năng ở nước ngoài có thể hội nhập vào nền kinh tế trong nước một cách chính danh, thuận lợi và được bảo vệ bằng pháp luật.

Thể chế tốt chính là điều kiện tiên quyết. Không có hành lang pháp lý rõ ràng, cởi mở, không ai dám mang tài sản về nước đầu tư. Nhưng khi Nhà nước ban hành luật mới theo hướng trao quyền tự do kinh doanh, giảm xin-cho, bình đẳng giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước thì những người từng chỉ đứng ngoài quan sát đã bắt đầu quay về, thành lập công ty, khởi sự đầu tư nghiêm túc. Chính từ đây, chúng ta mới chứng kiến sự hình thành của những tập đoàn tư nhân tầm cỡ khu vực và quốc tế do người Việt dẫn dắt.

- Ngoài hành lang pháp lý thông thoáng như bà đã nhắc ở trên thì đâu là những chính sách hoặc tín hiệu quan trọng từ Chính phủ đã giúp tạo niềm tin và thúc đẩy làn sóng doanh nhân Việt kiều trở về nước sau Đổi mới?

- Tôi cho rằng có hai yếu tố song hành: Một là cải cách thể chế như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi. Hai là sự chủ động kết nối và khuyến khích rất thiết thực từ phía Chính phủ.

Ngay từ những năm 90, lãnh đạo cấp cao của Việt Nam như Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Phó Thủ tướng Phan Văn Khải đã có nhiều chuyến công du đến các nước Đông Âu, Liên Xô cũ và các nước phương Tây. Trong mỗi chuyến đi, ngoài làm việc với chính phủ sở tại, các vị lãnh đạo đều ưu tiên gặp gỡ cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Những cuộc trò chuyện, trao đổi thân tình ấy không chỉ là lời kêu gọi mà thực sự là cam kết chính sách rằng người Việt ở nước ngoài nếu quay về đầu tư, kinh doanh sẽ được hưởng đầy đủ ưu đãi như nhà đầu tư nước ngoài, được pháp luật bảo hộ như công dân trong nước.

Một điểm rất đáng chú ý là chính sách áp dụng linh hoạt: doanh nhân Việt kiều có thể lựa chọn đầu tư theo Luật Doanh nghiệp trong nước hoặc Luật Đầu tư nước ngoài tùy theo chiến lược vốn và lĩnh vực kinh doanh. Điều đó thể hiện một sự cởi mở rất đáng quý, góp phần xóa đi khoảng cách giữa “trong” và “ngoài”.

Bên cạnh đó, sự thay đổi về tư duy của Nhà nước từ việc nhìn cộng đồng người Việt ở nước ngoài chỉ như một nhóm “kiều bào” gửi ngoại tệ về, sang nhìn họ như một lực lượng kinh tế thực thụ, có thể tạo đột phá cũng là bước tiến lớn. Với cách tiếp cận đó, Việt Nam không chỉ gọi được nguồn vốn, mà còn gọi được chất xám, kinh nghiệm quản trị và mạng lưới quốc tế - điều mà khu vực tư nhân trong nước lúc bấy giờ còn rất thiếu.

Nói cách khác, thể chế đúng cộng với thông điệp đúng đã tạo ra làn sóng hội tụ đầy ấn tượng của những người Việt tài năng trở về và góp phần định hình khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam hôm nay.

 Chuyên gia Phạm Chi Lan: "Thể chế đúng và thông điệp đúng đã khơi dậy làn sóng người Việt tài năng trở về, góp phần định hình khu vực kinh tế tư nhân hiện nay".

Chuyên gia Phạm Chi Lan: "Thể chế đúng và thông điệp đúng đã khơi dậy làn sóng người Việt tài năng trở về, góp phần định hình khu vực kinh tế tư nhân hiện nay".

“Đổi mới lần hai” thế nào để hút được nhân tài?

- Nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam đang bước vào một “cuộc Đổi mới lần hai”, với yêu cầu cấp bách về cải cách thể chế và chuyển đổi mô hình phát triển. Theo bà, bối cảnh hiện nay có gì tương đồng với thời kỳ đầu Đổi mới 1986? Và đâu là nhiệm vụ quan trọng nhất lúc này?

- Tôi cho rằng bối cảnh hiện nay có nhiều điểm tương đồng với thời kỳ đầu Đổi mới, đặc biệt ở tinh thần: phải thay đổi và thay đổi một cách mạnh mẽ, quyết liệt. Tuy nhiên, nếu như giai đoạn đầu chúng ta chủ yếu thiếu vốn, thiếu thị trường thì bây giờ bài toán lớn nhất nằm ở tri thức và công nghệ.

Chúng ta đang bước vào thời kỳ phát triển phụ thuộc rất nhiều vào năng lực con người, từ kỹ năng, trình độ công nghệ đến khả năng quản trị. Nếu không có đội ngũ đủ năng lực để làm chủ, tiếp thu và phát triển công nghệ mới thì sẽ khó mà bứt phá trong cuộc đua toàn cầu, đặc biệt khi Cách mạng công nghiệp 4.0 đang mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra yêu cầu rất cao về đổi mới tư duy và nâng cấp năng lực quản trị quốc gia.

Điều đáng mừng là Việt Nam hiện có một lực lượng người Việt ở nước ngoài rất hùng hậu, từ giới trí thức, chuyên gia công nghệ cho đến những doanh nhân đã thành công ở nhiều quốc gia. Họ không chỉ có nguồn lực tài chính mà còn nắm giữ tri thức, kinh nghiệm, công nghệ và mạng lưới kết nối toàn cầu mà Việt Nam rất cần.

Tuy nhiên, để thu hút được nguồn lực quý báu này, chúng ta cần những chính sách thực chất hơn, không chỉ dừng lại ở lời mời gọi mang tính biểu tượng. Cần tạo dựng một môi trường pháp lý minh bạch, thủ tục hành chính gọn nhẹ, chính sách rõ ràng và nhất là phải thực sự tôn trọng tri thức, trao quyền cho người tài phát huy.

Cuộc Đổi mới lần thứ hai sẽ không thể thành công nếu chỉ dựa vào quyết tâm từ trên, mà phải là một nỗ lực tổng thể, trong đó Nhà nước tạo khung thể chế phù hợp, còn doanh nghiệp, người dân và cộng đồng người Việt toàn cầu cùng chung tay hành động.

- Trước đây, làn sóng trí thức Việt kiều trở về nước chủ yếu đến từ Đông Âu. Vậy hiện nay, Việt Nam nên ưu tiên kết nối và thu hút nguồn lực kiều bào từ đâu - thung lũng Silicon, Tokyo hay châu Âu?

- Thật ra, tôi thấy người Việt Nam hiện diện ở khắp nơi trên thế giới, từ Mỹ, Nhật Bản đến châu Âu, và ở đâu cũng có những cá nhân xuất sắc. Điều quan trọng lúc này không phải là tập trung vào một khu vực cụ thể, mà là xây dựng được một bản đồ tri thức toàn cầu của người Việt, phân loại theo chuyên môn, vị trí địa lý, lĩnh vực đang hoạt động và mức độ sẵn sàng hợp tác với trong nước.

Lấy ví dụ ở Nhật Bản - nơi tôi có dịp làm việc cùng cộng đồng trí thức người Việt có khoảng 50.000 người Việt đang làm việc trong các lĩnh vực đòi hỏi hàm lượng chất xám cao, từ trường đại học, viện nghiên cứu đến các doanh nghiệp công nghệ. Nhiều người trong số họ từng học đại học ở Việt Nam, sau đó mới ra nước ngoài làm việc, nên vẫn giữ mối liên hệ mật thiết với quê hương, từ gia đình đến bạn bè. Họ là những người có sự gắn bó tự nhiên, rất dễ khơi dậy tinh thần đóng góp nếu có chính sách phù hợp.

Và không chỉ riêng Nhật Bản, hiện chúng ta đã có khoảng 10 mạng lưới trí thức Việt Nam ở nước ngoài, trải khắp Mỹ, Pháp, Đức, Nhật, Hàn Quốc… Họ đều có tiềm năng kết nối chặt chẽ với trong nước, nếu được tổ chức bài bản và có cơ chế phù hợp.

Trước đây, chúng ta bước đầu đã xây dựng danh sách trí thức Việt toàn cầu, nhưng chủ yếu mới chỉ vận dụng họ như nguồn lực đầu tư hoặc cầu nối thị trường. Bây giờ, trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn đổi mới lần hai, điều cần thiết hơn bao giờ hết là tận dụng chính hàm lượng tri thức, công nghệ và tư duy toàn cầu của lực lượng này.

Về mặt địa lý, đương nhiên những quốc gia gần Việt Nam như Nhật Bản, Hàn Quốc sẽ có lợi thế hơn trong kết nối trực tiếp. Nhưng tôi cho rằng, chúng ta không nên giới hạn mục tiêu theo khoảng cách địa lý. Điều cần làm là xây dựng một cơ chế linh hoạt để họ có thể “về” mà không cần “hồi hương”, tức là có thể đóng góp từ xa, theo dự án, theo chương trình cụ thể, hoặc theo từng vấn đề mà Việt Nam đang cần lời giải.

Muốn làm được điều đó, trước hết phải có cơ sở dữ liệu đồng bộ, cập nhật và đủ chiều sâu về các chuyên gia người Việt trên toàn thế giới - ai đang làm ở đâu, trong lĩnh vực nào, mức độ quan tâm và cam kết với Việt Nam ra sao. Trên nền đó, mới có thể thiết kế được những “đơn đặt hàng” đúng người, đúng việc.

 Chuyên gia Phạm Chi Lan: "Muốn thu hút nhân lực chất lượng cao, nhất là trong khoa học - công nghệ, không chỉ cần ưu đãi tài chính mà còn phụ thuộc vào cách đãi ngộ trí thức trong nước".

Chuyên gia Phạm Chi Lan: "Muốn thu hút nhân lực chất lượng cao, nhất là trong khoa học - công nghệ, không chỉ cần ưu đãi tài chính mà còn phụ thuộc vào cách đãi ngộ trí thức trong nước".

- Cùng với cải cách pháp luật và thủ tục hành chính, theo bà, Việt Nam cần những “cam kết mềm” nào để người Việt tài năng ở nước ngoài cảm thấy yên tâm trở về, cống hiến và gắn bó lâu dài?

- Để thu hút nguồn lực chất lượng cao, đặc biệt là những người làm trong lĩnh vực khoa học - công nghệ, điều quan trọng không chỉ nằm ở những ưu đãi vật chất hay chính sách tài chính. Một yếu tố rất then chốt là cách chúng ta sử dụng và đãi ngộ đội ngũ trí thức hiện có trong nước.

Giới trí thức ở nước ngoài sẽ quan sát rất kỹ việc trong nước có thực sự coi trọng, tin tưởng và giao việc cho người tài hay không. Nếu ngay cả trí thức trong nước còn bị sử dụng lệch lạc, không đúng chuyên môn, hoặc bị ràng buộc quá nhiều yếu tố lý lịch, chính trị thì khó có thể tạo niềm tin cho người Việt ở nước ngoài quay về.

Do đó, ngoài việc “trải thảm đỏ”, chúng ta cần xây dựng một môi trường thực sự trọng dụng trí tuệ, đánh giá đúng năng lực và có cơ chế sử dụng minh bạch, sòng phẳng. Đãi ngộ phải gắn với hiệu quả đóng góp chuyên môn chứ không chỉ dựa trên chức danh hay mối quan hệ hành chính.

- Vậy đâu là những khác biệt căn bản giữa môi trường làm việc khoa học ở Việt Nam và các quốc gia phát triển mà chúng ta cần sớm khắc phục để có thể “giữ chân” các nhà khoa học trở về, thưa bà?

- Một khác biệt rất lớn chính là cơ chế tài chính và quyền chủ động. Ở các nước phát triển, những người làm nghiên cứu khoa học thường có quyền tự chủ rất cao trong việc sử dụng ngân sách, thiết lập nhóm nghiên cứu và triển khai dự án. Họ có thể huy động nguồn lực xã hội từ hàng chục nghìn đến hàng triệu USD, và được toàn quyền quyết định trong khuôn khổ đề tài, không bị soi xét từng hóa đơn nhỏ.

Ngược lại, ở Việt Nam, quá trình giải ngân và giám sát tài chính cho nghiên cứu còn quá phức tạp, thiếu sự tin tưởng khiến nhiều đề tài chậm trễ hoặc không thể triển khai đúng tiến độ. Có thời điểm, Bộ Khoa học và Công nghệ thậm chí phải trả lại ngân sách vì không thể giải ngân đúng tiến độ, không phải vì không có nhu cầu, mà vì thủ tục quá rườm rà. Đây là một nút thắt lớn mà chúng ta cần khắc phục.

- Bà có đề xuất gì để tạo ra môi trường làm việc hấp dẫn, giúp Việt Nam giữ chân và phát huy được năng lực của đội ngũ nhà khoa học?

- Tôi cho rằng chúng ta cần có những cải cách mạnh hơn, thậm chí phải có những “đặc cách táo bạo” cho các nhà khoa học. Một trong những giải pháp là áp dụng mô hình làm việc linh hoạt, cho phép các nhà khoa học “đi - về” giữa hai quốc gia, làm việc từ xa, kết nối trực tuyến và cộng tác xuyên biên giới.

Đi cùng với đó là xây dựng một hệ sinh thái nghiên cứu phải đủ độ mở, linh hoạt và tin cậy. Thực tế cho thấy người tài thường không chỉ làm việc một mình mà đi cùng cả một hệ thống cộng tác viên, nhóm nghiên cứu, và họ cần quyền chủ động trong việc lựa chọn nhân sự, đề tài, ngân sách. Nếu cứ tiếp tục áp một bộ máy tổ chức hành chính cứng nhắc, can thiệp sâu vào khâu nhân sự, tài chính thì dù có mời gọi nồng nhiệt đến đâu, chúng ta cũng khó giữ được người giỏi.

Trên thực tế, Việt Nam đã có một vài mô hình đáng chú ý. Điển hình là VinBigData của Vingroup - khi mời được các nhà khoa học có uy tín như GS Vũ Hà Văn hay TS Bùi Hải Hưng về làm việc - họ không chỉ cung cấp đãi ngộ tốt mà còn trao quyền thực sự, tin tưởng và cho phép chủ động về tổ chức, đó mới là điều giữ được người tài. Chính vì thế, khi các tập đoàn lớn như Nvidia tìm hiểu thị trường Việt Nam, họ sẵn sàng hợp tác hoặc mua lại những đơn vị như VinBigData, bởi họ tin vào chất lượng và cơ chế vận hành ở đó.

Tóm lại, muốn thu hút người giỏi thì không chỉ dựa vào lời mời trân trọng, mà còn cần cơ chế làm việc hiện đại, minh bạch và đầy đủ niềm tin. Nếu môi trường không thay đổi, tư duy không đổi mới, chúng ta rất khó giữ chân được nguồn lực tinh hoa.

- Xin cảm ơn bà!

Lời mời góp ý với Diễn đàn “CHỌN VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN TÀI”

Tạp chí điện tử VietTimes trân trọng mời quý độc giả, chuyên gia, nhà quản lý, nhà khoa học, trí thức trong và ngoài nước gửi ý kiến, đề xuất chính sách hoặc chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn nhằm góp phần hiện thực hóa các chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm về việc thu hút, phát triển đội ngũ nhân tài quốc gia trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Vui lòng gửi bài viết và ý kiến về diễn đàn “MỜI GỌI VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN TÀI” theo địa chỉ: toasoan@viettimes.vn

Lệ Chi

Nguồn VietTimes: https://viettimes.vn/the-che-mo-nhan-tai-ve-bai-hoc-tu-lan-song-viet-kieu-dong-au-post188038.html