Thể chế rõ 'cơ chế đặc biệt về nhập quốc tịch' theo Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị

Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh cho biết, dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam được xây dựng nhằm thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng trong tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho người nước ngoài, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài khi thực hiện thủ tục nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam.

Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh trình bày Tờ trình tóm tắt dự án Luật. (Ảnh: Cổng TTĐTQH)

Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh trình bày Tờ trình tóm tắt dự án Luật. (Ảnh: Cổng TTĐTQH)

Thúc đẩy chính sách hòa hợp dân tộc

Ngày 28/4, tiếp tục chương trình Phiên họp thứ 44, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) cho ý kiến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam.

Trình bày Tờ trình tóm tắt dự án Luật, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh nhấn mạnh sự cần thiết ban hành Luật nhằm thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng (Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị; Chỉ thị số 45- CT/TW ngày 19/5/2015, Kết luận số 12-KL/TW ngày 12/8/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về công tác người Việt Nam ở nước ngoài và Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển số quốc gia); tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho người nước ngoài, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài khi thực hiện thủ tục nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam. Qua đó, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết, thúc đẩy chính sách hòa hợp dân tộc và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới.

Quan điểm xây dựng Luật là bám sát các chủ trương, đường lối của Đảng liên quan đến đổi mới tư duy xây dựng pháp luật nói chung, pháp luật về quốc tịch nói riêng. Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất, chặt chẽ, toàn diện của Đảng trong quá trình xây dựng Luật; tiếp tục thực hiện chủ trương đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và tăng cường quản lý nhà nước về quốc tịch. Đồng thời tiếp tục duy trì nguyên tắc một quốc tịch Việt Nam. Tập trung rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định giải quyết những vướng mắc, bất cập lớn, cơ bản, mang tính phổ quát, thực sự là “điểm nghẽn” cần phải tháo gỡ trong thực tiễn.

Quang cảnh Phiên họp. (Ảnh: Cổng TTĐTQH)

Quang cảnh Phiên họp. (Ảnh: Cổng TTĐTQH)

Theo Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh, dự thảo Luật tập trung vào 2 chính sách lớn, cụ thể:

Chính sách 1: Sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến việc nhập quốc tịch Việt Nam nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các trường hợp có cha đẻ hoặc mẹ đẻ hoặc ông bà nội hoặc ông bà ngoại là công dân Việt Nam; nhà đầu tư, nhà khoa học, chuyên gia nước ngoài... được nhập quốc tịch Việt Nam.

Chính sách 2: Sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến việc trở lại quốc tịch Việt Nam nhằm tạo điều kiện cho các trường hợp đã mất quốc tịch Việt Nam được trở lại quốc tịch Việt Nam.

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung gồm 3 Điều; sửa đổi, bổ sung nội dung của 19/44 điều, bãi bỏ 1 điều của Luật Quốc tịch Việt Nam. Trong đó, sửa đổi, bổ sung quy định về nhập quốc tịch Việt Nam như sửa đổi quy định tại khoản 1 Điều 19 theo hướng đối với người chưa thành niên có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam thì không cần đáp ứng điều kiện “có năng lực hành vi dân sự đầy đủ”. Đồng thời, sửa đổi, bổ sung quy định về trở lại quốc tịch Việt Nam như sửa đổi, bổ sung khoản 5 Điều 23 theo hướng “Người xin trở lại quốc tịch Việt Nam được giữ quốc tịch nước ngoài nếu đáp ứng các điều kiện do Chính phủ quy định và được Chủ tịch nước cho phép” và giao Chính phủ quy định điều kiện cụ thể.

Tiếp tục nghiên cứu các điều kiện nhập quốc tịch Việt Nam mà được giữ quốc tịch nước ngoài

Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng trình bày Báo cáo thẩm tra. (Ảnh: Cổng TTĐTQH)

Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng trình bày Báo cáo thẩm tra. (Ảnh: Cổng TTĐTQH)

Trình bày Báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp (UBPLTP) của QH Hoàng Thanh Tùng nêu rõ, UBPLTP tán thành sự cần thiết ban hành Luật với những lý do nêu tại Tờ trình của Chính phủ. Nội dung dự thảo Luật cơ bản phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng được đề ra tại Nghị quyết số 36-NQ/TW, Chỉ thị số 45-CT/TW và Kết luận số 12-KL/TW của Bộ Chính trị, tuy nhiên, chưa thể chế rõ “cơ chế đặc biệt về nhập quốc tịch” theo Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị để thu hút, trọng dụng các nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành là người Việt Nam ở nước ngoài.

Chủ nhiệm UBPLTP cho biết, nội dung dự thảo Luật cơ bản phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013. UBPLTP cho rằng, các quy định trong dự thảo Luật sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để xem xét, quyết định cho phép người Việt Nam ở nước ngoài được nhập quốc tịch, trở lại quốc tịch Việt Nam, được hưởng các quyền của công dân Việt Nam. Vì vậy, để bảo đảm đúng tinh thần tại khoản 2 Điều 14 của Hiến pháp, đa số ý kiến trong UBPLTP đề nghị quy định cụ thể trong dự thảo Luật mà không giao Chính phủ quy định điều kiện người nhập quốc tịch, trở lại quốc tịch Việt Nam mà được giữ quốc tịch nước ngoài tại khoản 3 Điều 19, khoản 5 Điều 23 của dự thảo Luật. Có ý kiến tán thành giao Chính phủ quy định các nội dung này như dự thảo Luật để bảo đảm linh hoạt và có thể thay đổi khi có yêu cầu mới về đối ngoại, chủ quyền quốc gia.

Qua thảo luận, đa số các thành viên UBTVQH tán thành với sự cần thiết ban hành Luật này và tán thành việc thông qua Luật theo quy trình, thủ tục rút gọn. Hồ sơ dự án Luật đảm bảo đủ điều kiện theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Các ý kiến cũng tham gia góp ý về sự phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, về tính hợp hiến, hợp pháp của dự thảo Luật; về quan hệ giữa Nhà nước và công dân (khoản 5 Điều 5, khoản 6 Điều 5); về điều kiện người nhập trở lại quốc tịch Việt Nam mà được giữ quốc tịch nước ngoài; về các điều kiện được nhập quốc tịch Việt Nam mà được giữ quốc tịch nước ngoài...

Kết luận nội dung này, Phó Chủ tịch QH Nguyễn Khắc Định nêu rõ, UBTVQH đánh giá cao Chính phủ, Bộ Tư pháp đã khẩn trương, trách nhiệm cao trong thời gian ngắn chuẩn bị xây dựng hồ sơ, tài liệu dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam kỹ lưỡng, cơ bản đảm bảo đầy đủ các điều kiện theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Đồng thời phối hợp chặt chẽ với UBPLTP trong quá trình nghiên cứu, chuẩn bị Báo cáo thẩm tra. Báo cáo thẩm tra thể hiện rõ ràng, đầy đủ, toàn diện các khía cạnh và thể hiện rõ quan điểm của cơ quan thẩm tra về từng nội dung của dự thảo Luật.

UBTVQH thống nhất về sự cần thiết ban hành Luật và đề xuất của Chính phủ về việc trình QH cho ý kiến, thông qua theo quy trình rút gọn tại Kỳ họp thứ 9. Đề nghị Chính phủ tiếp tục nghiên cứu, thể hiện rõ hơn trong Tờ trình và dự thảo Luật về thể chế hóa nội dung “cơ chế đặc biệt về nhập quốc tịch” theo Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Về điều kiện người nhập trở lại quốc tịch Việt Nam mà được giữ quốc tịch nước ngoài, UBTVQH đề nghị quy định ngay trong Luật một số điều kiện cơ bản mang tính nguyên tắc và giao cho Chính phủ quy định chi tiết các điều kiện đó, gồm cả các trường hợp đặc biệt, đảm bảo vừa thể hiện rõ ràng, minh bạch, vừa thể hiện sự phân cấp linh hoạt, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

Về quy định điều kiện chỉ có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam đối với người ứng cử, UBTVQH thống nhất cả 3 đối tượng mà Chính phủ đề xuất; tuy nhiên đề nghị và thống nhất với ý kiến của UBPLTP là tiếp tục rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật.

Liên quan đến khoản 6 vào Điều 5 của Luật Quốc tịch Việt Nam về nội dung “Quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền Việt Nam về một số vấn đề liên quan đến quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật này không bị khiếu nại, khiếu kiện”, UBTVQH đề nghị quy định hoặc làm rõ nội hàm của quyết định về “một số vấn đề” trong điều khoản nêu trên để bảo đảm minh bạch, áp dụng thống nhất.

Về các điều kiện được nhập quốc tịch Việt Nam mà được giữ quốc tịch nước ngoài, UBTVQH thống nhất nội dung như Chính phủ trình nhưng đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo báo cáo Chính phủ để tiếp tục nghiên cứu, bổ sung một số trường hợp mà Cơ quan chủ trì thẩm tra đề xuất.

H.Hoài

Nguồn Pháp Luật VN: https://baophapluat.vn/the-che-ro-co-che-dac-biet-ve-nhap-quoc-tich-theo-nghi-quyet-so-57-nqtw-cua-bo-chinh-tri-post546948.html