Thí điểm học vượt cấp, vượt lớp là giải pháp hợp lý để giữ chân nhân tài từng đoạt giải Olympic
Chương trình đào tạo dành cho những học sinh đã đoạt giải tại các kỳ thi Olympic quốc tế và khu vực cần phải có điều chỉnh để tăng tính chuyên biệt.
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong giai đoạn 2016-2025, các đội tuyển Việt Nam tham gia dự thi Olympic khu vực và quốc tế đã mang về cho Việt Nam 362 huy chương, trong đó có 112 Huy chương Vàng, 140 Huy chương Bạc, 89 Huy chương Đồng và 21 Bằng khen.

Biểu đồ so sánh kết quả tham dự Olympic khu vực và quốc tế giai đoạn 2006-2015 và giai đoạn 2016-2025. Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác đào tạo và bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi vẫn còn một số hạn chế nhất định. Thực tế cho thấy phần lớn học sinh đạt thành tích cao đều đi du học và nhiều em ở lại nước ngoài sau khi tốt nghiệp.
Một trong số những nguyên nhân được nêu ra là còn thiếu cơ chế riêng cho việc đào tạo, bồi dưỡng đặc thù; môi trường nghiên cứu trong nước vẫn chưa đáp ứng được kỳ vọng.
Do đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra giải pháp cần thí điểm học vượt cấp, vượt lớp cùng cơ chế đào tạo song bằng (cho phép nhân tài vừa học đại học trong nước, vừa học trực tuyến kết hợp trực tiếp ngắn hạn để nhận thêm bằng quốc tế từ các cơ sở giáo dục uy tín).
Cho phép học vượt cấp, vượt lớp và đào tạo song bằng là phù hợp
Là người có nhiều năm tham gia dẫn đoàn đội tuyển Olympic Sinh học quốc tế, trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Thị Phương Hoa - Trưởng Bộ môn Di truyền - Hóa sinh, khoa Sinh học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội hoàn toàn ủng hộ phương án được Bộ nêu ra.
Cô Hoa bày tỏ: “Để phát huy năng lực và tiếp tục bồi dưỡng đội ngũ nhân tài này, cần tận dụng nội lực của các em, dựa trên những kiến thức các em đã tích lũy trong quá trình học tập, ôn luyện đến khi thi quốc tế. Những học sinh đoạt giải Olympic không chỉ có năng lực vượt trội mà còn sở hữu kiến thức vững chắc từ quá trình tự học, ôn luyện khắc nghiệt để chinh phục các kỳ thi trong nước và quốc tế.
Vì vậy, thay vì học lại từ đầu những môn đại cương đã thành thạo, có thể quy đổi tương đương để miễn giảm, hoặc cho phép thi hết môn mà không yêu cầu ngồi học đầy đủ ở lớp.
Với các môn chuyên sâu, nên thêm những cơ chế linh hoạt, cho phép các em học sớm hơn, học trong thời gian ngắn hoặc không giới hạn số tín chỉ mỗi kỳ (thay vì chỉ 14 - 26 tín chỉ như sinh viên thông thường). Nhờ đó, các em sẽ có thêm thời gian để tự học, tự nghiên cứu - yếu tố then chốt để nuôi dưỡng đam mê khoa học và tạo ra những phát minh thực sự".
Được biết, ở khoa Sinh học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, sinh viên lớp chất lượng cao được khuyến khích tham gia nghiên cứu khoa học từ năm thứ nhất, có thể bảo vệ tốt nghiệp sớm, đồng thời có quyền được miễn một môn học trong chương trình đào tạo cao học, được học vượt, rút ngắn thời gian học thạc sĩ xuống còn khoảng 1 năm rưỡi, thậm chí sớm hơn.
Với cơ chế cho phép học song bằng, cô Hoa đánh giá: “Xét về năng lực, các học sinh từng đoạt giải tại kỳ thi Olympic quốc tế và khu vực hoàn toàn có thể đáp ứng. Phần lớn các em có trình độ tiếng Anh tốt do thường xuyên tìm kiếm tài liệu quốc tế để tự học, trau dồi.
Trong quá trình ôn thi đội tuyển, các em cũng đã được tiếp cận với các kiến thức mới nhất, cập nhật, thậm chí ngang tầm với kiến thức ở bậc đại học trong một số môn. Vấn đề ở chỗ cần phải có sự hợp tác, liên kết chặt chẽ giữa 2 cơ sở đào tạo cùng cấp bằng để công nhận tín chỉ, đưa ra lộ trình học tập phù hợp đồng thời có thêm những chính sách ưu đãi cho những đối tượng trên”.

Phó giáo sư, Tiến sĩ Lê Thị Phương Hoa - Phó Trưởng đoàn Olympic Sinh học Quốc tế năm 2025 (ngoài cùng bên trái). Ảnh: baochinhphu.vn
Cùng bàn luận về vấn đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Lãm - Phụ trách Bộ môn Công nghệ Quang tử, Khoa Vật lý Kỹ thuật và Công nghệ Nano, Trường Đại học Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội) thông tin, Đại học Quốc gia Hà Nội có chương trình ươm tạo tài năng từ bậc trung học phổ thông hay còn gọi là VNU 12+.
Chương trình này được xây dựng với mục tiêu phát hiện, thu hút, đào tạo và hướng nghiệp sớm cho học sinh trung học phổ thông có tiềm năng, năng lực, tài năng thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội thông qua việc tư vấn ngành nghề và tạo điều kiện cho học sinh đăng ký học sớm (học trước) một số học phần trong các chương trình đào tạo trình độ đại học.
Mô hình trên cá thể hóa trong đào tạo tài năng, dưới hình thức huấn luyện, hướng dẫn theo cá thể hoặc nhóm nhỏ (từ 1-5 học sinh) bởi các nhà khoa học có chuyên môn, uy tín trong lĩnh vực/ngành đào tạo.
Chương trình VNU 12+ tại Trường Đại học Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội) tạo ra cơ hội để học sinh có thể tiếp cận học tập ở các ngành đào tạo đại học thuộc 3 lĩnh vực đào tạo của trường là Máy tính và công nghệ thông tin; Công nghệ kỹ thuật; Kỹ thuật.
Nói thêm về cơ chế đào tạo song bằng, thầy Lãm cho biết, đây là phương hướng tốt. Tại một số trường đại học cũng đã triển khai "chương trình sandwich" - cho phép người học vừa học tập ở Việt Nam, vừa học tập ở nước ngoài, hoặc đã có các chương trình liên kết quốc tế.
Điều quan trọng là các cơ sở đào tạo cần thống nhất môn học, công nhận tín chỉ lẫn nhau để đảm bảo chất lượng và sự liền mạch, tránh gây khó khăn cho người học.
Theo quan điểm của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Vũ - Phó Trưởng khoa Khoa Công nghệ thông tin, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh), đối với những học sinh đã đoạt giải tại các kỳ thi Olympic quốc tế và khu vực, chương trình đào tạo cần phải có những điều chỉnh đề đáp ứng mong đợi, cá nhân hóa, chuyên biệt, chuyên sâu hơn hướng đến nghiên cứu khoa học và phát triển tài năng.
Việc cho phép học vượt là một trong những giải pháp hợp lý, bởi những học sinh này đã chứng minh được năng lực ở mức độ nhất định. Tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh), chương trình đào tạo ngành Công nghệ thông tin hiện áp dụng cơ chế miễn học phần cho sinh viên vượt qua bài thi đánh giá trình độ lập trình, giúp tạo động lực và rút ngắn thời gian học tập.
Đặc biệt, thầy Vũ nhấn mạnh: “Cơ chế học vượt cũng cần được áp dụng cho trình độ sau đại học. Nếu muốn tiến đến làm chủ các công nghệ lõi, người học phải tiếp tục theo đuổi và nâng cao trình độ lên tiến sĩ. Ngay cả với nhân tài Olympic, nếu không theo đuổi đến cấp học này, các em cũng khó phát huy tối đa khả năng.
Tại một số quốc gia ở châu Mỹ và châu Úc, người học không bắt buộc phải qua bậc thạc sĩ mới có thể học chương trình tiến sĩ. Cơ chế cho phép học sớm giúp người học có thể nhanh chóng đóng góp cho hoạt động nghiên cứu, ứng dụng.
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cũng đang áp dụng cơ chế này khi sinh viên tốt nghiệp loại giỏi và có công bố khoa học có thể nộp hồ sơ xét tuyển vào chương trình tiến sĩ, bỏ qua trình độ thạc sĩ".

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Vũ - Phó Trưởng khoa Khoa Công nghệ thông tin, Trường Đại học Khoa học tự nhiên (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh). Ảnh: NVCC.
Đầu tư cơ sở vật chất, tăng cường giao lưu quốc tế
Chia sẻ thêm về vấn đề đổi mới chương trình đào tạo, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Lãm cho biết, việc điều chỉnh chương trình đào tạo trong nước theo các chuẩn mực quốc tế vẫn còn nhiều khó khăn, đặc biệt với các ngành kỹ thuật - công nghệ do yêu cầu cao về cơ sở vật chất.
Các chương trình quốc tế thường chú trọng mạnh vào hoạt động thực hành, từ phòng thí nghiệm đạt chuẩn đến cơ hội thực tập tại doanh nghiệp. Đây cũng là những yếu tố mà giáo dục đại học Việt Nam cần từng bước hoàn thiện trong thời gian tới.
Đưa ra đề xuất tháo gỡ vấn đề về cơ sở vật chất, thầy Lãm nói: “Để nâng cấp phòng thí nghiệm cần có sự hỗ trợ mạnh mẽ hơn từ Nhà nước. Nhà nước có thể cân nhắc lựa chọn một số ngành mũi nhọn để ưu tiên đầu tư, giúp các trường có điều kiện triển khai hiệu quả. Bên cạnh đó, cần khuyến khích hợp tác công - tư, kết nối doanh nghiệp cùng tham gia xây dựng cơ sở thực hành, cũng như mở rộng mô hình dùng chung phòng thí nghiệm giữa các trường và viện nghiên cứu để tối ưu nguồn lực”.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Lãm – Phụ trách Bộ môn Công nghệ Quang tử, Khoa Vật lý Kỹ thuật và Công nghệ Nano, Trường Đại học Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội). Ảnh: NVCC.
Dưới góc nhìn của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Vũ, trong quá trình học tập tại Việt Nam, các học sinh từng đoạt giải tại các kỳ thi Olympic cần được tạo điều kiện tối đa để giao lưu quốc tế. Việc tham dự hội thảo quốc tế thường xuyên, được hỗ trợ kinh phí và tham gia các nhóm nghiên cứu quốc tế là vô cùng cần thiết.
Nói cách khác, môi trường đào tạo phải tiệm cận với điều kiện du học nước ngoài, giúp người học trau dồi tri thức, mở rộng trải nghiệm và tiếp xúc với các nền văn hóa khác nhau.
Đồng thời, cần có cơ chế mở để mời các giáo sư người nước ngoài về Việt Nam giảng dạy. Điều này cũng là phù hợp với mục tiêu được nêu trong Nghị quyết số 71-NQ/TW. Đó là tuyển dụng ít nhất 2.000 giảng viên giỏi từ nước ngoài. Việc có được đội ngũ này cũng sẽ là một trong những yếu tố giúp thu hút, giữ chân nhân tài ở lại Việt Nam.
"Tuy nhiên, cơ chế phải thực sự cởi mở, cho phép chuyên gia hợp tác theo hình thức bán thời gian, thay vì yêu cầu họ chuyển hẳn về Việt Nam - điều vốn khó cạnh tranh so với môi trường học thuật quốc tế. Song song đó, các trường đại học vẫn phải tiếp tục xây dựng đội ngũ giảng viên cơ hữu chất lượng cao" - thầy Vũ nhấn mạnh.
Hiện tại, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang xây dựng đề án về lựa chọn, bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng, đãi ngộ đối với đội ngũ nhân tài, mũi nhọn, năng khiếu (trong đó có học sinh giỏi và đoạt giải Olympic).
Góp ý cho đề án, ngoài vấn đề nâng cấp, đầu tư cơ sở vật chất như thư viện, thiết bị học tập, nghiên cứu, Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Vũ đề nghị chú trọng chính sách học bổng dành cho đối tượng này.
Không chỉ miễn học phí, người học cần được hỗ trợ sinh hoạt phí, chi phí nghiên cứu, đặc biệt là học bổng sau đại học dành cho nghiên cứu sinh. Ngoài ra, nghiên cứu sinh cũng cần được xem như người lao động và được trả mức lương phù hợp.
Cùng với việc đổi mới chương trình đào tạo cũng cần có chính sách khuyến khích du học sinh và nhân tài đang học ở nước ngoài quay về Việt Nam làm việc. Điều này đòi hỏi môi trường học tập, làm việc phải có khả năng phát triển lâu dài, đồng thời thúc đẩy giao lưu quốc tế mạnh mẽ.
Tóm lại, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Vũ nhấn mạnh 3 vấn đề then chốt là chính sách học bổng; đầu tư cơ sở vật chất; phát triển chương trình đào tạo cùng đội ngũ giảng viên chất lượng, môi trường làm việc tốt. Đây là những yếu tố quan trọng để thu hút và giữ chân nhân tài, tạo nguồn lực đóng góp cho quốc gia.











