Thị trường chứng khoán đã thực sự 'rũ bỏ' sự hỗn loạn trong lĩnh vực ngân hàng?
Thất bại của ngân hàng thường là điều xấu cho hoạt động kinh tế. Đôi khi, chỉ cần một ngân hàng sụp đổ có thể làm nổ tung hệ thống tài chính và gây ra hàng loạt nỗi đau.
Các nhà đầu tư đã nhận thức được điều này qua rất nhiều cuộc khủng hoảng trước đó. Họ đã bán tháo cổ phiếu sau việc các ngân hàng thất bại. Vào tháng 5/1984, Continental Illinois, một ngân hàng lớn ở miền Trung Tây nước Mỹ đã phá sản và được Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) giải cứu, chỉ số Dow Jones khi đó đã giảm 6%. Vào tháng 9/2008, khi ngân hàng đầu tư Lehman Brothers phá sản, chỉ số Dow Jones đã giảm 10%. Trong thời kỳ Đại suy thoái, khi hết ngân hàng này đến ngân hàng khác phá sản, thị trường chứng khoán đã giảm 89% từ mức đỉnh vào tháng 9/1929 đến mức đáy vào tháng 7/1932.
Nhưng, mọi thứ giờ đã khác. Vào tháng 3/2023, có tới ba ngân hàng của Mỹ phá sản chỉ trong vòng một tháng, và tiền gửi đã rời khỏi các ngân hàng nhỏ trên khắp nước Mỹ. Ngoài ra, Credit Suisse - một ngân hàng 167 năm tuổi của Thụy Sĩ đã bị các nhà quản lý buộc phải sáp nhập với UBS. Tuy nhiên, chỉ số S&P 500 đã tăng 4%, đây là một mức lợi nhuận cao, cao hơn nhiều so với mức trung bình hàng tháng dài hạn khoảng 0,5%. Chứng khoán châu Âu cũng tăng 3%.
Cách giải thích tốt nhất về những sự kiện này là trí tuệ tập thể của thị trường đã suy luận rằng, mối nguy hiểm đã qua. Các cơ quan quản lý đã ra tay giải cứu, sắp xếp các giao dịch, đảm bảo tiền gửi và mở rộng các cơ sở cho vay khẩn cấp đối với các ngân hàng đang gặp khó khăn. Suy luận suy nghĩ của các nhà đầu tư từ cách thị trường di chuyển là nghệ thuật hơn là khoa học. Nhưng đây có thực sự là những gì mọi người đang nghĩ?
Theo The Economist, câu trả lời có lẽ không. Đầu tiên, rõ ràng là từ cách thị trường lãi suất hoạt động, cũng như cách mà các dòng cổ phiếu khác nhau di chuyển theo những hướng khác nhau, các nhà đầu tư hiện đang không đặt cược vào mọi điều tốt đẹp với ngành ngân hàng hoặc nền kinh tế. Những gì họ đang đặt cược vào chỉ là cắt giảm lãi suất. Lý do khiến các chỉ số chứng khoán tổng thể phục hồi là do mức tăng giá cổ phiếu của các công ty nhạy cảm nhất với lãi suất cao hơn. Cụ thể, các tập đoàn công nghệ khổng lồ, bao gồm Apple và Microsoft, đã bù đắp nhiều hơn cho sự sụt giảm của cổ phiếu ngân hàng và tài chính. Điều này thể hiện rõ nhất từ hiệu suất của chỉ số Nasdaq với mức tăng 7% trong tháng 3.
Thứ hai, các nhà đầu tư cá nhân, những người có xu hướng bị thu hút vào trong thời kỳ sôi động nhất của thị trường, dường như đang chuyển sang đứng ngoài thị trường. Khối lượng giao dịch của các nhà đầu tư cá nhân đã tăng lên kể từ đầu năm 2021, khi cơn sốt GameStop đã khơi dậy sự hưng phấn của một số lượng lớn các nhà đầu tư cá nhân. Theo công ty cung cấp dữ liệu Vanda, những nhà đầu tư này đã mua vào cổ phiếu vào đầu năm nay với lượng mua ròng kỷ lục 17 tỷ USD cổ phiếu trong hai tuần đầu tiên của tháng 2. Tuy nhiên, hoạt động của các nhà đầu tư cá nhân cũng sụp đổ cùng với Silicon Valley Bank (SVB). Trong hai tuần cuối tháng 3, các nhà đầu tư cá nhân chỉ mua ròng 9 tỷ USD cổ phiếu, mức thấp nhất kể từ cuối năm 2020.
Thứ ba và đáng nói nhất, là những gì đang xảy ra với “giao dịch hoán đổi”, hay các công cụ phái sinh lãi suất. Những điều này cho phép các nhà đầu tư đặt cược dài hạn vào những gì có thể xảy ra với lãi suất, mà nhiều người sử dụng như một hình thức để bảo hiểm cho danh mục đầu tư của mình. Theo đó, các nhà đầu tư có thể mua cổ phiếu kết hợp với mua một số ít các giao dịch hoán đổi để phòng hộ cho những kịch bản xấu. Vào đầu tháng 3, thị trường hoán đổi đã cân bằng. Chi phí đặt cược vào việc Fed tăng lãi suất trên 6% vào cuối năm cũng cân bằng với chi phí đặt cược vào việc cắt giảm lãi suất xuống dưới 4%. Nhưng, bây giờ các nhà đầu tư đang bỏ ra chi phí cao hơn để tự bảo vệ mình trước các kịch bản ngày tận thế. Chi phí để mua một công cụ phái sinh nếu Fed cắt giảm lãi suất khoảng 2% vào tháng 12, đang cao gấp đôi so với mua một công cụ phái sinh trả lãi nếu lãi suất tăng trên 6%.
Tất cả điều này cho thấy một sự khó chịu được che đậy bởi sự nổi lên của giá cổ phiếu. Vào cuối chu kỳ thắt chặt tiền tệ, các nhà đầu tư có xu hướng áp dụng tâm lý “tin xấu là tin tốt”, trong đó bất kỳ dấu hiệu khó khăn nào trong nền kinh tế đều phản trực giác với họ, vì nó cho thấy các ngân hàng trung ương có thể đẩy lùi lại các đợt tăng lãi suất (hoặc thậm chí cắt giảm lãi suất).
Tuy nhiên, sự nhiệt tình của các nhà đầu tư cá nhân đang giảm dần và sự vội vàng mua bảo hiểm trước thảm họa ngụ ý rằng, các nhà đầu tư vẫn lo lắng về tin xấu này có thể thực sự tồi tệ. Giá cổ phiếu tăng cho thấy các nhà đầu tư đang hy vọng điều tốt nhất. Nhưng hoạt động ở những thị trường khác cho thấy họ cũng đang chuẩn bị cho những điều tồi tệ nhất.