Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 11-18/11: Dầu giảm tuần thứ 4 liên tục, kim loại biến động trái chiều
Kết thúc tuần giao dịch từ 11-18/11, thị trường hàng hóa thế giới ghi nhận nhiều mặt hàng giảm giá, trong đó có dầu thô với tuần giảm thứ 4 liên tiếp, cùng với đó là biến động của mặt hàng kim loại.
Năng lượng: Dầu giảm giá tuần thứ 4 liên tiếp, khí LNG quay đầu tăng
Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu thế giới bật tăng vào thứ Sáu (17/11), phục hồi từ mức thấp nhất 4 tháng trong phiên trước đó, nhưng cả hai loại dầu vẫn tuần giảm thứ tư liên tiếp, chủ yếu do tồn kho dầu thô của Mỹ tăng và sản lượng duy trì ở mức cao kỷ lục.
Cụ thể, chốt phiên giao dịch 17/11, giá dầu thô Brent tăng 3,19 USD (+ 4,1%) lên 80,61 USD/thùng; dầu thô Mỹ (WTI) tăng 2,99 USD (+4,1%) lên 75,89 USD/thùng. Tuy nhiên, cả hai loại dầu đều kết thúc tuần giảm hơn 1% - cũng là tuần giảm thứ tư liên tiếp.
Cuộc khủng hoảng tài sản ngày càng sâu sắc của Trung Quốc và tốc độ tăng trưởng công nghiệp chậm lại gây áp lực lên giá dầu.
Các nhà sản xuất dầu của Mỹ đã cắt giảm số lượng giàn khoan đang hoạt động trong gần một năm qua do giá giảm. Tuy nhiên, số giàn khoan dầu trong tuần qua đã tăng 6 giàn, nhiều nhất kể từ tháng 2/2023, Công ty Dịch vụ năng lượng Baker Hughes BKR.O cho biết.
Một số nhà phân tích cho rằng, đợt bán tháo mạnh hôm thứ Năm (16/11) có thể đã quá mức, đặc biệt trong bối cảnh căng thẳng leo thang ở Trung Đông có thể làm gián đoạn nguồn cung dầu.
Với giá dầu Brent dưới 80 USD, nhiều nhà phân tích kỳ vọng Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh, còn được gọi là OPEC+, chủ yếu là Ả Rập Xê-út và Nga, sẽ gia hạn cắt giảm sản lượng đến năm 2024.
Ả Rập Xê-út, Nga và các thành viên khác của OPEC+ đã cam kết cắt giảm sản lượng dầu tổng cộng là 5,16 triệu thùng mỗi ngày, tương đương khoảng 5% nhu cầu dầu hàng ngày trên toàn cầu, dự kiến sẽ xem xét liệu có tiếp tục cắt giảm hơn nữa nguồn cung dầu, khi nhóm họp vào cuối tháng này hay không, sau khi chứng kiến giá “vàng đen” giảm gần 20% kể từ cuối tháng 9/2023.
Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) tại Mỹ tăng trong tuần qua do dự báo thời tiết lạnh hơn và nhu cầu sưởi ấm nhiều hơn đến cuối tháng 11/2023 so với dự kiến trước đó và do lượng khí đốt kỷ lục đến các nhà máy xuất khẩu LNG.
Cụ thể, giá LNG giao tháng 12/2023 trên Sàn giao dịch hàng hóa New York tăng 8,4 cent(+2,7%) lrrm 3,190 USD/mmBtu.
Công ty Tài chính LSEG cho biết, sản lượng khí đốt trung bình tại 48 bang của Mỹ tăng lên 107,3 tỷ feet khối mỗi ngày (bcfd) từ đầu tháng 11 đến nay, tăng từ mức kỷ lục 104,2 bcfd trong tháng 10.
Với thời tiết lạnh hơn sắp tới, LSEG dự báo nhu cầu khí đốt của Mỹ tại 48 tiểu bang, bao gồm cả xuất khẩu, sẽ tăng từ 111,3 bcfd trong tuần này lên 113,9 bcfd vào tuần tới.
Dòng khí tới 7 nhà máy xuất khẩu LNG lớn của Mỹ đã tăng lên mức trung bình 14,1 bcfd từ đầu tháng 11 đến nay, tăng từ 13,7 bcfd trong tháng 10 và kỷ lục hàng tháng là 14 bcfd trong tháng 4/2023.
Kim loại: Giá vàng ổn định trở lại; đồng, nhôm phục hồi; quặng sắt đi xuống, thép biến động trái chiều
Ở nhóm kim loại quý, giá vàng giữ ổn định nhưng hướng tới mức tăng hàng tuần lớn nhất 4 năm khi USD và lợi suất trái phiếu kho bạc suy yếu trong bối cảnh kỳ vọng ngày càng tăng rằng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã hoàn thành việc thắt chặt chính sách tiền tệ.
Cụ thể, vàng giao ngay ổn định ở mức 1.980,2 USD/ounce trong phiên 17/11 sau khi tăng lên mức cao nhất 2 tuần trước đó và tăng khoảng 2,2% trong tuần qua. Trong khi đó, giá vàng kỳ hạn giảm 0,1% xuống 1.984,7 USD/ounce .
Dữ liệu cho thấy, chỉ số giá tiêu dùng của Mỹ không thay đổi trong tháng 10/2023 và số người Mỹ nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp mới tăng nhiều hơn dự kiến vào tuần trước.
Thị trường đang dự kiến Fed sẽ cắt giảm lãi suất vào đầu tháng 5/2024 khi lạm phát chậm lại. Lãi suất thấp hơn gây áp lực giảm lên USD và lợi suất trái phiếu, tăng cường sức hấp dẫn của vàng thỏi. USD đang trên đà giảm mạnh hàng tuần, trong khi lợi suất trái phiếu kho bạc kỳ hạn 10 năm cũng giảm.
Về một số kim loại quý khác: Giá bạc giảm 0,1% xuống 23,72 USD/ounce, trong khi platinum tăng 0,4% lên 895,95 USD/ounce và cả hai kim loại quý này đều tăng 6,7% trong tuần qua. Trong khi đó, palladium tăng 1,4% lên 1.052,56 USD/ounce và hướng tới tuần tăng mạnh nhất trong hơn 1 năm qua.
Ở nhóm kim loại màu, giá đồng nhích lên vào thứ Sáu (17/11) sau khi USD yếu hơn, mặc dù lo ngại về nhu cầu tại nước tiêu dùng kim loại hàng đầu Trung Quốc đã kiểm soát mức tăng.
Cụ thể, giá đồng giao sau 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) tăng 0,1% lên 8.225,5 USD/tấn.
Trong khi đó, hợp đồng đồng giao tháng 12/2023 được giao dịch nhiều nhất trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) giảm 0,3% xuống 67.610 CNY (tương đương 9.331,57 USD)/tấn.
USD đang trên đà giảm điểm hàng tuần khi một loạt dữ liệu kinh tế Mỹ yếu hơn dự kiến được công bố trong tuần này, dẫn đến lạm phát chậm lại, đã củng cố kỳ vọng của thị trường rằng Fed đã đi đến cuối chu kỳ thắt chặt tiền tệ mạnh mẽ.
Đồng bạc xanh yếu hơn khiến hàng hóa định giá bằng USD trở nên rẻ hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Tuy nhiên, lo ngại về nhu cầu ở Trung Quốc, nước chiếm gần một nửa lượng tiêu thụ đồng toàn cầu, càng được củng cố bởi giá nhà mới giảm tháng thứ tư trong tháng 10/2023.
ANZ Research cho biết, việc tăng sản lượng đồng tinh chế trong nước của Trung Quốc là một lực cản khác đối với thị trường.
Về một số kim loại màu khác, trên sàn LME, giá nhôm tăng 0,2% lên 2.212 USD/tấn; nikel tăng 0,1% lên 17.040 USD/tấn; kẽm giảm 0,1% xuống 2.573,5 USD/tấn; chì giảm 1% xuống 2.262 USD/tấn và thiếc giảm 0,4% xuống 25.105 USD/tấn.
Trên sàn SHFE, giá nhôm giảm 0,8% xuống 18.805 CNY/tấn; nikel giảm 2,5% xuống 135,480 CNY/tấn.
Ở nhóm kim loại đen, giá quặng sắt tháng 1/2024 được giao dịch nhiều nhất trong trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên của Trung Quốc giảm 2,6% xuống 955 CNY (tương đương 131,58 USD)/tấn, chạm mức thấp nhất trong 1 tuần.
Trên Sàn giao dịch Singapore, giá quặng sắt chuẩn giao tháng 12/2023 giảm 1,1% xuống 128,65 USD/tấn.
Atilla Widnell, giám đốc điều hành tại Navigate Commodities cho biết, giá quặng sắt tăng vọt do tâm lý gần đây đã thu hút sự chú ý của chính quyền Trung Quốc.
Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia (NDRC) đang điều tra mức giá “cao bất hợp lý” và Đại Liên đã điều chỉnh giới hạn giao dịch quặng sắt kỳ hạn.
Sàn Đại Liên do Nhà nước Trung Quốc hậu thuẫn đã đặt ra giới hạn về khối lượng giao dịch hàng ngày đối với hợp đồng quặng sắt tương lai ở mức không quá 500 lô đối với các hợp đồng giao hàng từ tháng 1-5/2024.
Atilla cho biết, cú sốc giảm giá chỉ là tạm thời, với việc những nhà đầu cơ giá lên sẽ nắm bắt cơ hội để mua ở mức giá thấp.
Dữ liệu chính thức cho thấy giá nhà mới của Trung Quốc đã giảm lần thứ 4 trong tháng 10, do các biện pháp hỗ trợ của chính phủ không giúp giải tỏa được nỗi u ám đang bao trùm người tiêu dùng và khu vực bất động sản của nước này đang thua lỗ. Nhiều nhà máy thực hiện bảo trì lò trong bối cảnh biên lợi nhuận mỏng và nhu cầu đáng thất vọng trong mùa tiêu thụ cao điểm.
Điểm chuẩn thép trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải không đồng đều. Hợp đồng cốt thép được giao dịch nhiều nhất giảm 0,1%; thép cuộn cán nóng tăng 0,1%; thép thanh tăng 0,6% và thép không gỉ giảm 0,3%.
Các nguyên liệu sản xuất thép như than cốc Đại Liên và than cốc giảm lần lượt 0,8% và 0,2%.
Nông sản: Đồng loạt giảm giá
Giá ngũ cốc và đậu tương kỳ hạn tại Chicago (Mỹ) giảm khi triển vọng mưa ở Brazil làm giảm bớt lo ngại về mùa màng, hoạt động mua trầm lắng. Giá đậu tương, ngô và lúa mì đều giảm hơn 1%.
Cụ thể, chốt phiên 17/11, giá đậu tương của CBOT giảm 17-1/4 cent xuống 13,43 USD/bushel và thiết lập mức thấp nhất trong phiên là 13,39-1/2 USD/bushel, cũng là mức giá thấp nhất trong tuần.
Những cơn mưa rào dự kiến vào tuần này sẽ nhanh chóng giảm bớt căng thẳng do nắng nóng và khô hạn ở 40% diện tích đậu nành phía bắc Brazil, Commodity Weather Group cho biết. Miền Bắc Brazil sau đó dự kiến sẽ khô hạn trở lại.
Cuộc bầu cử tổng thống sít sao ở Argentina cũng gây thêm áp lực lên thị trường.
Giá lúa mì kỳ hạn tháng 12/2023 giảm 3/4 cent xuống 5,52-3/4 USD/bushel sau khi giảm xuống 5,47 USD/bushel, giảm 6,5% so với mức cao nhất trong tuần.
Giá ngô kỳ hạn tháng 12/2023 giảm 6 cent xuống 4,68-3/4 USD/bushel.
Nguyên liệu công nghiệp: Giá đường, cà phê, cao su giảm, ca cao duy trì đà tăng
Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2024 giảm 0,3% xuống 27,10 cent/lb. Đường trắng cùng kỳ hạn tăng 0,2% lên 734,90 USD/tấn.
Ukraine đã tăng xuất khẩu đường trong năm nay, cho dù các cảng ở Biển Đen của nước này bị phong tỏa vì xung đột với Nga - Hiệp hội Doanh nghiệp nông nghiệp Ukraine (UCAB) cho biết.
Giá cà phê arabica kỳ hạn trên sàn ICE giảm khi dự báo thời tiết được cải thiện cho Brazil, có khả năng sẽ tạo ra một vụ mùa bội thu vào năm tới.
Cụ thể, cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2024 chốt phiên giảm 1,8% xuống 1,7300 USD/lb. Cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2024 giảm 2% xuống 2.514 USD/tấn sau khi thiết lập mức cao nhất trong 2 tháng vào ngày 16/11/2023.
Giá ca cao London kỳ hạn tháng 3/2024 tăng 0,3% lên 3.497 pound/tấn, quay trở lại mức cao kỷ lục 3.569 pound/tấn được thiết lập vào ngày 14/11/2023. Giá ca cao kỳ hạn tháng 3/2024 tại New York tăng 0,8% lên 4.076 USD/tấn.
Thị trường ca cao tiếp tục nhận được sự hỗ trợ từ sự sụt giảm mạnh nguồn cung từ Bờ Biển Ngà và Ghana, cùng với mối lo đang gia tăng về sản lượng giảm ở những người trồng châu Phi nhỏ hơn như Nigeria .
Giá cao su kỳ hạn tại Nhật Bản giảm hơn trở lại, chấm dứt đợt tăng kéo dài 7 phiên do các nhà đầu tư chốt lãi và giá dầu thô sụt giảm.
Cụ thể, hợp đồng cao su giao tháng 4/2024 tại Osaka Exchange (OSE) chốt phiên giảm 7,7 JPY (_2,8%) xuống 266,2 JPY (1,77 USD)/kg, ghi nhận mức giảm hàng ngày mạnh nhất trong hơn một năm qua. Tuy nhiên, giá hợp đồng này vẫn tăng 0,6% trong tuần, ghi nhận tuần tăng thứ hai liên tiếp.
Hợp đồng cao su giao tháng 1/2024 trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) giảm 245 CNY (-1,7%) xuống 14.240 CNY (1.965,30 USD)/tấn.
Hợp đồng cao su giao tháng 12/2023 tại sở giao dịch SICOM Singapore chốt phiên ở mức 147,7 US cent/kg, giảm 0,9%.
Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua