Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 20-27/7: Giá vàng bật tăng, đồng giảm thấp nhất gần 4 tháng

Kết thúc tuần giao dịch từ 20-27/7, thị trường hàng hóa thế giới tiếp tục chứng kiến giá đồng giảm xuống mức thấp nhất gần 4 tháng, những kim loại màu và kim loại đen khác cũng giảm, trong khi ngược lại, gia vàng bật tăng.

Năng lượng: Giá dầu và khí tự nhiên tiếp tục giảm; than Trung Quốc và Úc ổn định, than Indonesia và Nam Phi diễn biến trái chiều

Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu có tuần giảm do nhu cầu của Trung Quốc yếu và hy vọng một thỏa thuận ngừng bắn tại Gaza có thể làm giảm căng thẳng ở Trung Đông và những lo ngại về nguồn cung.

Cụ thể, đóng cửa phiên 26/7, dầu thô Brent giảm 1,24 USD (-1,5%) về 81,13 USD/thùng và dầu WTI giảm 1,12 USD (-1,4%) về 77,16 USD/thùng. Tính cả tuần, dầu Brent giảm hơn 1% và dầu WTI giảm hơn 3%.

Số liệu phát hành trong tuần trước cho thấy, tổng lượng dầu nhiên liệu của Trung Quốc giảm 11% trong nửa đầu năm 2024, làm dấy lên lo ngại về triển vọng nhu cầu ở Trung Quốc. Nền kinh tế nước này đang có nguy cơ bước vào chu kỳ giảm phát, khi giá sẽ giảm vì nhu cầu giảm.

Trong khi đó, nhu cầu từ nước tiêu thụ dầu hàng đầu thế giới cũng được dự kiến giảm do các nhà máy lọc dầu của Mỹ chuẩn bị cắt giảm sản lượng khi kết thúc du lịch mùa hè trong đầu tháng 9. Nhà máy lọc dầu lớn thứ 2 của nước này, Valero Energy cho biết, 14 nhà máy của họ sẽ hoạt động ở mức 92% tổng công suất trong quý III/2024. Các nhà máy lọc dầu của Valero đã hoạt động ở mức 94% công suất trong quý trước đó.

Tại Trung Đông, hy vọng một lệnh ngừng bắn ở Gaza đang ngày càng tăng. Một lệnh ngừng bắn đang tiến gần hơn bao giờ hết, một thỏa thuận ngừng bắn 6 tuần để đổi lấy việc Hamas thả các con tin là phụ nữ, người bệnh, người già và người bị thương.

Tuy nhiên, đà giảm của giá dầu bị hạn chế bởi các mối đe dọa tới sản lượng từ các vụ cháy rừng của Canada, dự trữ dầu thô của Mỹ giảm một lượng lớn và tiếp tục hy vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) cắt giảm lãi suất vào tháng 9 tới sau khi số liệu kinh tế của Mỹ mạnh mẽ.

Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) tại Mỹ đã giảm khoảng 4% xuống mức thấp nhất trong một tuần vào thứ Năm (26/7) do sản lượng tăng và dự báo nhu cầu sẽ thấp hơn vào tuần tới so với dự kiến trước đó.

Cụ thể, giá LNG giao tháng 8/2024 trên Sàn Giao dịch hàng hóa New York giảm 7,6 cent (-3,6%) xuống còn 2,041/mmBtu, mức đóng cửa thấp nhất kể từ ngày 17/7/2024 trong ngày thứ hai liên tiếp.

Công ty Tài chính LSEG cho biết, sản lượng khí đốt tại 48 tiểu bang đã tăng lên mức trung bình 102,4 tỷ feet khối mỗi ngày cho đến nay trong tháng 7, tăng so với mức trung bình 100,2 bcfd trong tháng 6 và mức thấp nhất trong 17 tháng là 99,4 bcfd vào tháng 5.

Trên thị trường than, tại Nam Phi, giá than nhiệt lượng High-CV 6.000 tăng trên 108 USD/tấn do gián đoạn 2 tuyến đường sắt xuất khẩu than lớn. Vào ngày 21/7, tồn kho Cảng than Richards Bay (RBCT) tăng lên 3,24 triệu tấn, nhưng 2 ngày sau đó giảm xuống 3,14 triệu tấn trong bối cảnh đường sắt bị gián đoạn.

Tại Trung Quốc, giá than giao ngay 5.500 NAR tại cảng Tần Hoàng Đảo giữ nguyên ở mức 120 USD/tấn. Dù thời tiết nắng nóng, nhiệt độ lên tới 40˚C, nhu cầu tại thị trường nội địa Trung Quốc vẫn ở mức thấp. Tồn kho than đáng kể kéo dài dọc theo toàn bộ chuỗi cung ứng (tại các nhà sản xuất, cảng và nhà máy nhiệt điện) tiếp tục tác động đến việc mua giao ngay. Theo những người tham gia thị trường, các yếu tố cơ bản hiện tại yếu hơn so với cùng kỳ năm ngoái, khi giai đoạn nhu cầu thấp trên thị trường giao ngay kéo dài từ cuối tháng 7 đến cuối tháng 8. Tình hình dự kiến sẽ diễn ra theo kịch bản tương tự trong vài tuần tới. Tồn kho tại 9 cảng lớn nhất lên tới 26 triệu tấn.

Tại Indonesia, giá than nhiệt lượng 5.900 GAR giảm xuống mức 90,6 USD/tấn, trong khi 4.200 GAR không đổi ở mức 52 USD/tấn. Nhu cầu nguyên liệu Indonesia từ Trung Quốc và Ấn Độ vẫn còn hạn chế. Mức tồn kho hiện tại cho phép các thương nhân Trung Quốc có sự chọn lọc trong đấu thầu. Tình trạng tương tự cũng xảy ra với các đối tác Ấn Độ do sản lượng than trong nước tăng trưởng ổn định.

Tại Úc, than nhiệt lượng High-CV 6.000 duy trì ổn định trong khoảng 133-136 USD/tấn. Bất chấp nhiệt độ theo mùa cao, người tiêu dùng châu Á không vội tham gia thị trường giao ngay trong khi vẫn sử dụng lượng than dự trữ hiện có. Ngoài ra, giá LNG tương đối thấp và nguồn cung nguyên liệu dồi dào đã tác động tới giá.

Chỉ số than luyện kim HCC của Úc đã giảm mạnh xuống dưới 235 USD/tấn. Việc giảm từ mức 250 USD/tấn được coi là sự điều chỉnh hợp lý sau đợt tăng giá do việc đóng cửa mỏ Grosvenor của Anglo American. Nhu cầu về nguyên liệu của Úc ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương vẫn yếu do lượng hàng tồn kho của người tiêu dùng vẫn còn nhiều.

Kim loại: Giá vàng bật tăng, đồng xuống mức thấp nhất gần 4 tháng, quặng sắt và thép cũng giảm

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng tăng do lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ giảm bởi lạc quan về thời điểm Fed cắt giảm lãi suất vào tháng 9 sau khi số liệu cho thấy giá tiêu dùng của Mỹ tăng vừa phải trong tháng 6.

Cụ thể, vàng giao ngay tăng 0,8% lên 2.382,98 USD/ounce, sau khi xuống mức thấp nhất kể từ ngày 9/7/2024 trong phiên trước đó. Vàng Mỹ kỳ hạn tháng 8/2024 cũng tăng 1,2% lên 2.381 USD/ounce.

Các nhà hoạch định chính sách của Fed đã có bằng chứng mới về tiến triển trong cuộc chiến chống lạm phát, làm dấy lên dự đoán cuộc họp tới sẽ báo hiệu bắt đầu cắt giảm lãi suất vào tháng 9. Lãi suất giảm làm giảm chi phí giữ vàng.

Nhu cầu vàng tại Ấn Độ, nước tiêu thụ vàng lớn thứ hai thế giới, được thúc đẩy khi nước này giảm thuế nhập khẩu vàng và bạc hồi đầu tuần.

Ở nhóm kim loại màu, giá đồng giao sau ba tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) giảm 1,9% xuống 8.933,50 USD/tấn, đánh dấu phiên giảm thứ chín liên tiếp và là mức thấp nhất kể từ ngày 3/4/2024.

Hợp đồng đồng giao tháng 9/2024 được giao dịch nhiều nhất trên Sàn Giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) giảm 2,5% xuống 72.970 CNY (tương đương 10.046,67 USD)/tấn, cũng là mức thấp nhất trong 3,5 tháng.

Việc bán tháo xảy ra do lo ngại về nhu cầu của Trung Quốc, sau khi cuộc họp chính trị quan trọng vào tuần trước không công bố bất kỳ biện pháp cụ thể nào để thúc đẩy nền kinh tế và vực dậy lĩnh vực địa ốc. Nhu cầu vật chất đối với kim loại dùng trong điện và xây dựng vẫn yếu trong bối cảnh hàng tồn kho cao.

Trên sàn LME, giá chì giảm 0,6% xuống 2.032,5 USD/tấn; kẽm giảm 1,5% xuống 2.644,5 USD/tấn; thiếc giảm 1,7% xuống 29.280 USD/tấn; nikel giảm 1,2% xuống 15.640 USD/tấn và nhôm giảm 0,7% xuống 2.285,5 USD/tấn.

Trên sàn SHFE, giá nhôm giảm 1,2% xuống 19.085 CNY/tấn; nikel giảm 3,1% xuống 124.410 CNY/tấn; chì giảm 1,4% xuống 18.710 CNY/tấn; thiếc giảm 0,8% xuống 245.730 CNY/tấn và kẽm giảm 1,8% xuống 22.530 CNY/tấn.

Ở nhóm kim loại đen, giá quặng sắt kỳ hạn tiếp tục giảm do nguồn cung toàn cầu mạnh mẽ và thị trường thép yếu kém liên tục của Trung Quốc, mặc dù gợi ý về kích thích tiền tệ mạnh mẽ hơn đã giúp hạn chế tổn thất.

Cụ thể, hợp đồng quặng sắt giao tháng 9/2024 trên Sàn Giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc giảm phiên thứ 5 liên tiếp với mức giảm 1,55% xuống 764,5 CNY (105,5 USD)/tấn. Giá quặng sắt chuẩn tháng 8/2024 trên Sàn Giao dịch Singapore giảm 1,14% xuống 99,75 USD/tấn.

Fortescue của Australia dự báo xuất khẩu quặng sắt cao hơn trong năm tài chính 2025 và công bố mức tăng tuần tự 24% để đạt kỷ lục xuất khẩu trong quý IV.

Tuy nhiên, giá quặng sắt đã phục hồi một số mức giảm sau khi Ngân hàng Trung ương Trung Quốc gây bất ngờ cho thị trường khi tiến hành hoạt động cho vay đột xuất với lãi suất thấp hơn nhiều, cho thấy các nhà chức trách đang cố gắng cung cấp các biện pháp kích thích tiền tệ mạnh mẽ hơn.

Các hiệp hội kinh doanh thép tại Trung Quốc đang tìm kiếm các tiêu chuẩn chất lượng mới cho thép thanh cốt thép được sử dụng trong xây dựng để trì hoãn sau làn sóng bán tháo hàng tồn kho gây áp lực lên thị trường kim loại đen.

Theo đó, giá thép cây giao tháng 8/2024 trên sàn SHFE giảm 15 CNY xuống 3.132 CNY/tấn; thép thanh cốt thépthép không gỉ giảm hơn 2%; thép cuộn cán nóng giảm hơn 1,7% và thép dây giảm gần 4,5%.

Atilla Widnell - Giám đốc điều hành của Navigate Commodities, cho biết hy vọng về các thị trường tài chính lạc quan giao dịch với tổ hợp kim loại công nghiệp của Trung Quốc đã gặp phải “sự thất vọng nặng nề” sau khi hội nghị trung ương lần thứ ba của nước này không đạt được kỳ vọng kích thích.

Đáng lo ngại hơn, một loạt dữ liệu ảm đạm của Trung Quốc vào tuần trước cho thấy tốc độ thu hẹp diện tích sàn đang được xây dựng, số lượng hoàn thiện và giá bất động sản đang tăng nhanh, có nghĩa là các chính sách của chính phủ nhằm giải quyết lượng tồn kho nhà ở dư thừa đang có tác động thấp.

Nông sản: Ngô tăng giá, đi ngược lúa mì và đậu tương

Lúa mì trên Sàn Giao dịch Chicago (CBOT) của Mỹ giảm do dự đoán các cánh đồng lúa mì vụ xuân tại bang Dakota sẽ có sản lượng cao kỷ lục. Cụ thể, lúa mì mềm đỏ vụ Đông giao tháng 9/2024 đóng cửa giảm 14-1/4 US cent xuống 5,23-1/2 USD/bushel, giảm 3,5% trong tuần giảm thứ 3.

Giá ngô cũng giảm do dự báo thời tiết nóng, khô tại vành đai trồng Ngô. Cụ thể, ngô CBOT kỳ hạn tháng 9/2024 giảm 11-1/2 US cent về 3,945 USD/bushel, nhưng cả tuần giá vãn tăng 1,3%.

Đậu tương kỳ hạn tháng 8/2024 đóng cửa giảm 38-1/2 US cent xuống 10,77-1/2 USD/bushel.

Nguyên liệu công nghiệp: Giá đường và cà phê giảm, cao su đi lên

Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, đường thô kỳ hạn tháng 10/2024 đóng cửa giảm 0,24 US cent (-1,3%) xuống 18,42 US cent/lb. Đường trắng cùng kỳ hạn giảm 0,9% xuống 526,7 USD/tấn.

Citi cho biết, lượng mưa dưới mức bình thường tại Brazil cho thấy sản lượng mùa vụ yếu hơn, có thể giảm 2 triệu tấn trong niên vụ 2024-2025. Dự kiến giá đường thô trung bình đạt 19,5 US cent/lb trong quý III và 20 US cent/lb trong quý IV/2024.

Cà phê arabica kỳ hạn tháng 9/2024 đóng cửa giảm 4,45 US cent (-1,9%) về 2,3025 USD/lb, giá xuống thấp nhất 3 tuần tại 2,2750 USD/lb trong ngày 25/7 và cả tuần giảm 1,9%. Cà phê robusta cùng kỳ hạn giảm 2,1% xuống 4.302 USD/tấn.

Áp lực lên giá là tốc độ thu hoạch tăng lên tại nhà sản xuất hàng đầu Brazil, nhờ thời tiết khô gần đây. Tuy nhiên, Citi cho biết, họ đã điều chỉnh giảm dự báo sản lượng niên vụ này ở cả Việt Nam và Brazil do thời tiết yếu kém. Hiện tại, dự kiến thị trường toàn cầu ghi nhận dư thừa 100.000 bao loại 60 kg/bao trong niên vụ 2023-2024. Dự kiến, giá arabica trung bình là 2,45 USD/lb trong quý III/2024, cao hơn 10 US cent so với dự báo trước đó.

Hợp đồng cao su giao kỳ hạn tháng 1/2025 JRUc6 trên Sàn Giao dịch Osaka (OSE) tăng 2,7 JPY (+0,86%) len 318 JPY (2,07 USD)/kg, nhưng cả tuần vẫn giảm khoảng 0,3%. Hợp đồng cao su giao kỳ hạn tháng 9/2024 SNRv1 trên sàn SHFE tăng 105 CNY (+0,73%) lên 14.455 CNY (1.997,37 USD)/tấn. Tương tự, hợp đồng cao su tổng hợp butadiene (SBR) SHBRv1 giao kỳ hạn tháng 9/2024 tăng 165 CNY (+1,12%) lên 14.885 CNY (2.056,79 USD)/tấn. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn SICOM Singapore chốt ở 163 US cent/kg, tăng 1,6%.

Đồng JPY giao dịch ở mức 153,625 JPY đổi 1 USD - tăng 2,3% trong tuần qua, mức tăng hàng tuần lớn nhất kể từ cuối tháng 4 đến đầu tháng 5/2024. Sự hồi phục của JPY khiến các tài sản định giá bằng đồng tiền này trở nên đắt đỏ hơn với các khách hàng nước ngoài.

Cao su tự nhiên thường chịu sự điều chỉnh của giá dầu khi cạnh tranh thị phần với cao su tổng hợp được sản xuất từ dầu thô. Đầu phiên giao dịch châu Á, giá dầu tăng sau khi số liệu kinh tế của Mỹ mạnh mẽ làm dấy lên dự đoán nhu cầu dầu thô tăng, nhưng đà tăng bị hạn chế bởi những lo ngại về nhập khẩu dầu giảm từ Trung Quốc.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

N.Tùng

Nguồn ĐTCK: https://tinnhanhchungkhoan.vn/thi-truong-hang-hoa-the-gioi-tuan-tu-20-277-gia-vang-bat-tang-dong-giam-thap-nhat-gan-4-thang-post350353.html