Thổ Nhĩ Kỳ và sự trỗi dậy của ngành công nghiệp quốc phòng

Sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp quốc phòng Thổ Nhĩ Kỳ đang đưa Ankara trở thành một nhân tố chủ chốt trong thương mại vũ khí toàn cầu.

Trong thập niên qua, ngành công nghiệp quốc phòng Thổ Nhĩ Kỳ đã cho thấy những bước tiến vượt bậc, khẳng định vị thế ngày càng khó phớt lờ trong lĩnh vực thương mại vũ khí quốc tế, theo tờ The New Arab.

Vũ khí “made in” Thổ Nhĩ Kỳ

Trong 5 thập niên qua, chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ đã thúc đẩy mở rộng ngành công nghiệp quốc phòng trong nước và giảm sự phụ thuộc vào các công ty vũ khí nước ngoài. Tính đến năm 2025, các công ty trong nước cung ứng hơn 80% sản phẩm cho ngành quốc phòng.

Động lực hướng tới tự chủ xuất phát từ lệnh cấm vận vũ khí của Mỹ trong thập niên 1970, vốn đã ngăn Thổ Nhĩ Kỳ mua vũ khí từ Washington - đối tác quốc phòng lớn nhất của Ankara - trong ba năm .

“Những căng thẳng với Mỹ và các nước phương Tây, cũng như những hạn chế áp đặt lên Thổ Nhĩ Kỳ, đã khiến nước này tập trung hơn vào ngành công nghiệp vũ khí trong nước” - GS quan hệ quốc tế Ufuk Necat Tasci nói với The New Arab.

Những bài học của thập niên 1970 càng được củng cố vào năm 2020, khi chính quyền Tổng thống Donald Trump áp đặt trừng phạt ngành công nghiệp quốc phòng Thổ Nhĩ Kỳ và loại Ankara khỏi chương trình mua tiêm kích F-35 để đáp trả việc nước này mua hệ thống phòng không S-400 của Nga. Kể từ đó, doanh số bán vũ khí của Mỹ cho Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm hơn 80%, theo ông Tasci.

Sự phát triển của ngành công nghiệp quốc phòng Thổ Nhĩ Kỳ trong những năm gần đây đã bắt đầu cho ra thành quả là các sản phẩm có giá trị gia tăng cao và công nghệ tiên tiến.

Xe bọc thép và máy bay không người lái (UAV) của Thổ Nhĩ Kỳ đã trở thành nguồn thu ngoại tệ khổng lồ. Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ đang mở rộng sử dụng tàu không người lái sản xuất trong nước và hiện đang đóng chiếc tàu sân bay đầu tiên.

Aselsan - công ty quốc phòng lớn nhất Thổ Nhĩ Kỳ - sản xuất cảm biến, công nghệ dẫn đường tên lửa và hệ thống tác chiến điện tử. Tháng 8 vừa qua, quân đội Thổ Nhĩ Kỳ đã bắt đầu sử dụng hệ thống phòng không “Vòm Thép” mới của công ty, được cho là có khả năng bảo vệ trước các loại tên lửa tầm ngắn, tầm trung và tầm xa.

Một trong những dự án tham vọng nhất là phát triển máy bay chiến đấu thế hệ thứ năm nội địa mang tên KAAN. Dưới sự dẫn dắt của Tập đoàn Công nghiệp Hàng không Vũ trụ Thổ Nhĩ Kỳ, dự án này nếu thành công sẽ đưa Ankara vào nhóm quốc gia đặc biệt có khả năng chế tạo loại máy bay chiến đấu tiên tiến.

 Thổ Nhĩ Kỳ và chiến lược ngoại giao quốc phòng. Ảnh: THE NEW ARAB

Thổ Nhĩ Kỳ và chiến lược ngoại giao quốc phòng. Ảnh: THE NEW ARAB

Ngôi sao đang lên của ngành xuất khẩu vũ khí

Nhờ đầu tư vào ngành công nghiệp trong nước, Thổ Nhĩ Kỳ đã vươn lên trở thành một trong những nước xuất khẩu vũ khí mới nổi nhanh nhất thế giới và là nhà cung cấp lớn cho nhiều quốc gia ở châu Phi và châu Á.

Được thúc đẩy nhờ các đơn hàng xe bọc thép và UAV, doanh thu hằng năm từ xuất khẩu quốc phòng đã tăng gấp hơn 3 lần kể từ đầu thập niên này, đạt 7,1 tỉ USD vào năm 2024.

Theo Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm (SIPRI), thị phần toàn cầu của Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng từ 0,8% trong nửa sau thập niên 2010 lên 1,7% giai đoạn 2020-2024.

Nhu cầu đối với vũ khí Thổ Nhĩ Kỳ đặc biệt mạnh ở các quốc gia đang phát triển có thu nhập trung bình và cao. Azerbaijan, Turkmenistan, các quốc gia vùng Vịnh, Ukraine và Pakistan là những khách hàng nước ngoài lớn nhất trong thập niên qua. Các công ty Thổ Nhĩ Kỳ đạt được mức tăng trưởng đó không chỉ nhờ vào giá cả, mà còn nhờ những lợi thế khác so với đối thủ.

Thứ nhất, các công ty Thổ Nhĩ Kỳ cung cấp sản phẩm theo tiêu chuẩn phương Tây - nhờ tư cách thành viên NATO - với điều kiện ưu đãi hơn so với các nhà thầu Mỹ và châu Âu.

Vũ khí Thổ Nhĩ Kỳ cũng ít gắn kèm điều kiện chính trị hơn và ít chịu tác động từ những thay đổi trong chương trình nghị sự như một số chính phủ phương Tây.

“Nếu mua vũ khí, bạn muốn có sự ổn định. Bạn cần chắc chắn rằng chúng không bị đem ra mặc cả cho các vấn đề khác trong quan hệ song phương” - GS quan hệ quốc tế Sitki Egeli thuộc ĐH Kinh tế Izmir (Thổ Nhĩ Kỳ) nhận định.

Ngoài ra, vũ khí Thổ Nhĩ Kỳ còn có lợi thế hơn nhiều sản phẩm châu Âu ở chỗ được quân đội Thổ Nhĩ Kỳ trực tiếp sử dụng và thử nghiệm trên chiến trường.

Dù các nước đang phát triển vẫn là khách hàng lớn nhất, nhưng trong năm vừa qua, các công ty Thổ Nhĩ Kỳ đã bắt đầu chen chân vào những nền kinh tế phát triển - điều mà chỉ vài năm trước còn khó tưởng tượng.

Tập đoàn Công nghiệp Hàng không Vũ trụ Thổ Nhĩ Kỳ đang cung cấp máy bay huấn luyện cho Tây Ban Nha. Các nhà máy đóng tàu Thổ Nhĩ Kỳ đang xây dựng tàu hậu cần cho Hải quân Bồ Đào Nha.

Nhà sản xuất UAV hàng đầu Thổ Nhĩ Kỳ Baykar sẽ hợp tác với tập đoàn quốc phòng Ý Leonardo để sản xuất UAV tại Ý và bán cho các nước châu Âu. Trong một bước ngoặt quan trọng vào tháng 12-2024, công ty này đã thực hiện thương vụ thâu tóm đầu tiên ở châu Âu khi mua lại hãng hàng không vũ trụ Ý Piaggio.

Doanh số dự kiến sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới khi Thổ Nhĩ Kỳ mở rộng hiện diện ở châu Phi và châu Á cũng như thâm nhập sâu hơn vào châu Âu. Chính phủ kỳ vọng doanh thu sẽ đạt 8 tỉ USD trong năm nay và hướng tới 11 tỉ USD vào năm 2028.

Cường quốc UAV toàn cầu

UAV đã trở thành biểu tượng cho sự trỗi dậy của Thổ Nhĩ Kỳ như một lực lượng đáng kể trong ngành công nghiệp vũ khí toàn cầu. Các công ty Thổ Nhĩ Kỳ như Baykar và Tập đoàn Công nghiệp Hàng không Vũ trụ Thổ Nhĩ Kỳ (TAI) đã xuất khẩu UAV tới gần 40 quốc gia trên thế giới.

Chỉ trong chưa đầy 7 năm kể từ khi bước vào thị trường quốc tế, các nhà thầu Thổ Nhĩ Kỳ đã chiếm hơn 2/3 lượng UAV vũ trang được chuyển giao toàn cầu, theo dữ liệu do Trung tâm An ninh Mỹ Mới (CNAS) thu thập.

Từ tháng 1-2020 đến tháng 9-2023, Thổ Nhĩ Kỳ đứng thứ hai sau Mỹ về số lượng UAV xuất khẩu, vượt qua cả Israel.

Dù chỉ mới xuất hiện trong thị trường toàn cầu, những thành công gần đây của các UAV Bayraktar TB2 và Akinci của TAI là kết quả của một chiến lược kéo dài nhiều thập niên nhằm phát triển phương tiện không người lái, được thúc đẩy do cuộc xung đột của Thổ Nhĩ Kỳ với người Kurd.

 UAV Bayraktar TB2 của Thổ Nhĩ Kỳ. Ảnh: ANADOLU AGENCY

UAV Bayraktar TB2 của Thổ Nhĩ Kỳ. Ảnh: ANADOLU AGENCY

“Điều đó đã mang lại cho Thổ Nhĩ Kỳ kinh nghiệm rất rộng rãi và hiểu biết trực tiếp về việc sử dụng UAV, các học thuyết, điểm mạnh, điểm yếu của UAV” - ông Egeli nói.

Thổ Nhĩ Kỳ có được vị thế thống trị trong mảng UAV vũ trang phần lớn là nhờ sự vắng mặt gần như hoàn toàn của các công ty Mỹ và châu Âu trên thị trường quốc tế. Rất ít quốc gia có thể mua được UAV chiến đấu của Mỹ do luật pháp Mỹ hạn chế xuất khẩu. Trong khi đó, các công ty châu Âu lại loay hoay không thể đưa các chương trình UAV nội địa vào thực tiễn.

Ngoài ra, việc Thổ Nhĩ Kỳ sớm áp dụng loại vũ khí cỡ nhỏ cho các máy bay nhẹ đã tạo ra một lựa chọn thay thế cần thiết so với các loại tên lửa lớn và đắt tiền do Mỹ và châu Âu sản xuất.

Theo GS Egeli, bằng cách khai thác khoảng trống trên thị trường, Thổ Nhĩ Kỳ đã phát triển những loại vũ khí phù hợp hơn với nhu cầu của các lực lượng vũ trang trên thế giới.

Vũ khí và ngoại giao

Những công nghệ đang phát triển của Thổ Nhĩ Kỳ đã trở thành công cụ chủ yếu để củng cố quan hệ đối ngoại và thúc đẩy hòa giải với các đối thủ cũ. Điều này thể hiện rõ nhất tại vùng Vịnh - nơi các quốc gia đã dần vượt qua những bất đồng trước đây với Ankara và trở thành đối tác sẵn sàng hợp tác với các công ty quốc phòng Thổ Nhĩ Kỳ.

Theo dữ liệu của SIPRI, trong nửa đầu thập niên này, UAE - vốn cũng là một trong những nhà cung cấp vũ khí mới nổi nhanh nhất thế giới - đã là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Thổ Nhĩ Kỳ.

Năm 2023, Saudi Arabia trở thành quốc gia mới nhất bổ sung UAV Bayraktar vào lực lượng không quân và hiện được cho là đang theo đuổi một thỏa thuận trị giá 6 tỉ USD để mua loạt vũ khí sản xuất tại Thổ Nhĩ Kỳ, bao gồm xe tăng, tàu hải quân và tên lửa.

Tháng 7 vừa qua, quỹ đầu tư quốc gia Saudi Arabia đã mời các công ty hàng đầu Thổ Nhĩ Kỳ tham gia xây dựng ngành công nghiệp quốc phòng nội địa.

Ông Tasci nhận định những tiến bộ công nghệ đã biến các công ty Thổ Nhĩ Kỳ trở thành “yếu tố then chốt” trong khả năng đạt được các mục tiêu chính sách đối ngoại của đất nước.

“Lời khẳng định của Thổ Nhĩ Kỳ rằng họ là một nhân tố lớn trong khu vực được củng cố bằng các mối quan hệ song phương và khu vực sâu rộng hơn, được tạo dựng thông qua ngành công nghiệp quốc phòng” - GS Tasci nói.

“Đối với các nước láng giềng của Thổ Nhĩ Kỳ, việc quay lưng lại với quốc gia này giờ đây không còn đơn giản như trước” - vị chuyên gia bổ sung.

THẢO VY

Nguồn PLO: https://plo.vn/video/tho-nhi-ky-va-su-troi-day-cua-nganh-cong-nghiep-quoc-phong-post872102.html