Thông qua Luật Tình trạng khẩn cấp, 5 hành vi bị nghiêm cấm

Luật Tình trạng khẩn cấp được Quốc hội thông qua quy định 5 hành vi bị nghiêm cấm, trong đó cấm lợi dụng tình trạng khẩn cấp để trục lợi...

Chiều 3/12, với 419/420 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (chiếm 88,58%), Quốc hội chính thức thông qua Luật Tình trạng khẩn cấp.

Theo đó, tình trạng khẩn cấp là trạng thái xã hội được cấp có thẩm quyền ban bố, công bố tại một hay nhiều địa phương hoặc trên phạm vi cả nước khi có thảm họa hoặc nguy cơ xảy ra thảm họa đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe con người, tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và cá nhân hoặc có tình hình đe dọa nghiêm trọng đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

Tình trạng khẩn cấp bao gồm: Tình trạng khẩn cấp về thảm họa; Tình trạng khẩn cấp về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; Tình trạng khẩn cấp về quốc phòng.

Luật quy định 5 hành vi bị nghiêm cấm trong tình trạng khẩn cấp, bao gồm: Chống đối, cản trở, không chấp hành hoặc chấp hành không đầy đủ chỉ đạo, chỉ huy, điều hành, yêu cầu của cơ quan hoặc người có thẩm quyền trong tình trạng khẩn cấp; Lợi dụng tình trạng khẩn cấp để trục lợi, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn hoặc thiếu trách nhiệm trong tình trạng khẩn cấp gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Trì hoãn, từ chối việc hoàn trả tài sản được huy động, trưng dụng của tổ chức, cá nhân hoặc không bồi thường thiệt hại do việc huy động, trưng dụng tài sản gây ra cho tổ chức, cá nhân theo quy định của Luật này và pháp luật có liên quan; Thông tin sai sự thật về tình trạng khẩn cấp.

Theo quy định tại luật, số điện thoại 112 được sử dụng để tiếp nhận, xử lý thông tin tình trạng khẩn cấp về thảm họa trên phạm vi toàn quốc.

Trong tình trạng khẩn cấp, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền được áp dụng các biện pháp kiểm soát thông tin cần thiết để ngăn chặn, xử lý thông tin sai sự thật, xuyên tạc, gây hoang mang trong Nhân dân, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Về thẩm quyền, trình tự ban bố, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp, Luật quy định: Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định ban bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp. Trong trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được, Chủ tịch nước ra lệnh công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp.

Thủ tướng Chính phủ đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định ban bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được thì đề nghị Chủ tịch nước ra lệnh công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp.

Đáng chú ý, Luật quy định Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp trong tình trạng khẩn cấp khi có thảm họa; về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; về quốc phòng theo quy định tại Luật và thời hạn áp dụng.

Quyết định cơ quan, tổ chức hoặc người có trách nhiệm thi hành biện pháp trong tình trạng khẩn cấp.

Trong trường hợp thật cần thiết, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, tính mạng, sức khỏe của người dân, sau khi được sự đồng ý của cấp có thẩm quyền, Thủ tướng có thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp mà pháp luật chưa quy định để ứng phó, khắc phục tình trạng khẩn cấp hoặc áp dụng các biện pháp quy định trong Luật này khi chưa ban bố, công bố tình trạng khẩn cấp;

Trong trường hợp cần thiết, Thủ tướng Chính phủ ủy quyền cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định áp dụng biện pháp trong tình trạng khẩn cấp khi có thảm họa theo quy định tại Luật.

Thiên Tuấn

Nguồn Tri Thức & Cuộc Sống: https://kienthuc.net.vn/thong-qua-luat-tinh-trang-khan-cap-5-hanh-vi-bi-nghiem-cam-post1589738.html