Thông qua Nghị quyết giải thích về vi phạm bí mật kinh doanh trong thực hiện cam kết CPTPP
Sáng 23/11, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến đối với Dự thảo Nghị quyết giải thích quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về hành vi vi phạm bí mật kinh doanh, thực hiện cam kết tại Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).
Tiếp tục chương trình phiên họp thứ 5, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã xem xét thông qua Nghị quyết giải thích Khoản 1 Điều 289 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Trình bày tờ trình của Chính phủ về dự thảo Nghị quyết giải thích một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long cho biết, việc ban hành nghị quyết để thống nhất việc vận dụng các quy định của Bộ luật Hình sự trong xử lý hành vi vi phạm bí mật kinh doanh là cần thiết. Việc ban hành nghị quyết nhằm đảm bảo thực hiện có hiệu quả và đúng lộ trình cam kết của Chính phủ Việt Nam trong Hiệp định CPTPP.
Theo quy định tại Hiệp định CPTPP, các quốc gia thành viên phải xử lý hình sự và áp dụng hình phạt đối với ít nhất một trong ba hành vi: Tiếp cận một cách cố ý và trái phép bí mật kinh doanh được lưu giữ trong một hệ thống máy tính; chiếm đoạt một cách cố ý và trái phép bí mật kinh doanh, kể cả thông qua một hệ thống máy tính; bộc lộ một cách gian lận, hoặc thay vào đó, bộc lộ một cách cố ý và trái phép bí mật kinh doanh, kể cả thông qua một hệ thống máy tính. Việc quy định mục đích của một trong 3 hành vi nêu trên sẽ tùy thuộc quyết định của các quốc gia thành viên.
Dự thảo Nghị quyết đã lựa chọn hành vi “lấy cắp dữ liệu” quy định tại khoản 1 Điều 289 và hành vi “chiếm đoạt trái phép tài liệu của cơ quan, tổ chức” quy định tại khoản 1 Điều 342 Bộ luật Hình sự năm 2015 để giải thích. Đồng thời, quy định về mục đích của người thực hiện hành vi vi phạm bí mật kinh doanh, đó là “nhằm đạt được lợi thế thương mại, thu lợi bất chính hoặc gây tổn hại cho chủ sở hữu”. Với cách giải thích như dự thảo Chính phủ trình thì Nghị quyết sẽ tương đối bao quát cả hành vi và mục đích thực hiện.
Dự thảo nghị quyết giải thích khoản 1 Điều 289 Bộ luật Hình sự năm 2015 như sau: Hành vi cố ý vượt qua cảnh báo, mã truy cập, tường lửa, sử dụng quyền quản trị của người khác hoặc bằng phương thức khác xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác lấy cắp dữ liệu quy định tại khoản 1 Điều 289 Bộ luật Hình sự được hiểu bao gồm cả hành vi cố ý vượt qua cảnh báo, mã truy cập, tường lửa, sử dụng quyền quản trị của người khác hoặc bằng phương thức xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác chiếm đoạt dữ liệu có chứa bí mật kinh doanh, kể cả nghe, đọc, ghi chép, chụp ảnh, ghi âm, ghi hình dữ liệu có chứa bí mật kinh doanh.
Thẩm tra dự thảo nghị quyết, Ủy ban Tư pháp bày tỏ nhất trí với nội dung giải thích theo đề xuất của Chính phủ. Ủy ban Tư pháp cho biết, nội dung giải thích bao gồm cả dữ liệu có chứa bí mật kinh doanh, vì vậy đã đáp ứng được yêu cầu xử lý hình sự hành vi vi phạm bí mật kinh doanh của Hiệp định. Trong cấu thành cơ bản của Tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác (khoản 1 Điều 289) bao gồm các hành vi kế tiếp nhau.
Để có thể lấy cắp được dữ liệu của người khác thì trước hết, người phạm tội phải xâm nhập được (được cụ thể hóa bằng các hành vi cố ý vượt qua cảnh báo, mã truy cập, tường lửa, sử dụng quyền quản trị của người khác hoặc bằng phương thức khác trong cấu thành cơ bản của tội phạm này) vào mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử của người khác, sau đó mới thực hiện các hành vi tiếp theo gồm chiếm quyền điều khiển, hoặc can thiệp vào chức năng hoạt động của phương tiện điện tử, hoặc lấy cắp, thay đổi, hủy hoại, làm giả dữ liệu, hoặc sử dụng trái phép các dịch vụ.
Do đó, Ủy ban Tư pháp cho rằng, việc lựa chọn “Hành vi cố ý vượt qua cảnh báo, mã truy cập, tường lửa, sử dụng quyền quản trị của người khác hoặc bằng phương thức khác xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác lấy cắp dữ liệu” để giải thích là phù hợp vì đây là một trong những hành vi đã được quy định khoản 1 Điều 289 Bộ luật Hình sự và là hành vi phù hợp nhất với yêu cầu của Hiệp định. Ngoài ra, qua rà soát Bộ luật Hình sự cho thấy, không có điều luật tương ứng nào khác phù hợp hơn để giải thích.
Tại phiên họp, với 100% thành viên có mặt tán thành Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết giải thích Khoản 1 Điều 289 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Các đại biểu bày tỏ nhất trí cao với tờ trình của Chính phủ và báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tư pháp.
Các đại biểu cho rằng, theo lộ trình, việc thực thi cam kết của Việt Nam tại CPTPP với vấn đề này là từ năm 2022. Do vậy, việc Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua dự thảo nghị quyết tại thời điểm này là hợp lý. Như vậy, nội dung này trong Hiệp định sẽ có hiệu lực đối với Việt Nam từ 14/1/2022.