Thủ tướng: Phát triển hạ tầng, tăng cường tiêu thụ vật liệu xây dựng trong nước
Thủ tướng yêu cầu tăng cường tiêu thụ vật liệu xây dựng trong nước thông qua triển khai tại các dự án lớn, dự án đầu tư công, công trình xây dựng thủy lợi, phòng chống thiên tai,… cũng như các hộ dân xây dựng, sửa chữa nhà ở đô thị và nông thôn.
Sáng 15/6, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị trực tuyến về tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, tiêu thu xi măng, sắt thép và vật liệu xây dựng (VLXD).
Cùng dự có Phó Thủ tướng Lê Minh Khái, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà, Bộ trưởng Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị, Bộ trưởng Công thương Nguyễn Hồng Diên, lãnh đạo các ban, bộ, ngành cơ quan Trung ương và địa phương; đại diện các hiệp hội, tổ chức, doanh nghiệp.
Tại hội nghị, các đại biểu đã thống nhất đánh giá về những kết quả đạt được; thẳng thắn chỉ ra những tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân; nhận diện tình hình, thách thức và đề xuất nhiều giải pháp để thúc đẩy sản xuất, tiêu thụ xi măng, sắt thép và VLXD thời gian tới.
Báo cáo tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Văn Sinh cho biết, trong những năm gần đây, năng lực sản xuất các VLXD chủ lực của Việt Nam đã tăng trưởng đạt khoảng 120 triệu tấn xi măng, 830 triệu m2 gạch ốp lát, 26 triệu sản phẩm sứ vệ sinh, 330 triệu m2 kính xây dựng, 20 tỷ viên gạch đất sét nung, 12 tỷ viên gạch không nung, 44,7 triệu tấn thép các loại (thép xây dựng 12,45 triệu tấn).
Trong đó, sản lượng xi măng, gạch ốp lát thuộc nhóm tốp đầu trên thế giới. Sản xuất thép thô của Việt Nam hiện đứng thứ 13 trên thế giới và đứng đầu khu vực ASEAN. Trình độ công nghệ, tổ chức sản xuất, kinh doanh, môi trường của ngành công nghiệp VLXD Việt Nam đứng tốp đầu trong các nước ASEAN. Chất lượng VLXD Việt Nam đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế. Tổng giá trị doanh thu hàng năm ngành VLXD xi măng, sắt thép ước đạt gần 47 tỷ USD, chiếm khoảng 11 % GDP quốc gia.
Các nhà máy VLXD, xi măng, sắt thép Việt Nam ngày càng được đầu tư bài bản, đáp ứng nhu cầu xây dựng trong nước và một phần xuất khẩu, khắc phục tình trạng thiếu VLXD, xi măng, sắt thép trong xây dựng thời kỳ trước năm 2010.
Sau khi nghe các ý kiến phát biểu, kết luận hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định, xi măng, sắt thép, VLXD có vai trò rất quan trọng trong xây dựng và phát triển đất nước; là vật liệu chủ lực để xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng đô thị và nông thôn, các công trình dân dụng, công nghiệp, phòng chống thiên tai, quốc phòng, an ninh. Tạo công ăn việc làm cho hàng triệu người lao động, nộp ngân sách lớn cho nhà nước. Tham gia đồng xử lý rác thải trong các lò nung xi măng, góp phần tích cực bảo vệ môi trường.
Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng đánh giá cao, biểu dương những nỗ lực, cố gắng và chúc mừng những kết quả đáng ghi nhận đã đạt được thời gian qua, nhất là Bộ Xây dựng, Bộ Công Thương với vai trò là cơ quan đầu mối thực hiện Chiến lược phát triển xi măng, sắt thép, VLXD của Việt Nam.
Thủ tướng cũng chỉ rõ những tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân trong đó nhấn mạnh, chi phí nhiên liệu than, điện tăng; khí hóa than tăng, dầu FO, khí tự nhiên hóa lỏng (CNG), khí gas hóa lỏng (LPG) trong thời gian qua có biến động.
Nguồn cung nguyên liệu phục vụ sản xuất xi măng, VLXD chưa được liên tục, thông suốt; ngành thép năng lực sản xuất còn hạn chế, Việt Nam tiếp tục là quốc gia nhập siêu về thép, phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu nước ngoài, đặc biệt trong sản xuất thép thô.
Sức ép bảo vệ môi trường, biến đổi khí hậu tăng; cơ chế chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất VLXD ứng dụng khoa học công nghệ chưa được ban hành kịp thời; cả tiêu thụ trong nước và xuất khẩu đều gặp khó khăn. Tình hình tài chính của ngành gặp khó khăn.
Thời gian tới để ngành xi măng, sắt thép, VLXD phát triển bền vững, phát huy hiệu quả và đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội bảo đảm mục tiêu tăng trưởng năm 2024, Thủ tướng cho biết, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo các bộ, ngành địa phương và các cơ quan liên quan thực hiện có hiệu quả Chiến lược phát triển vật liệu xây dựng Việt Nam thời kỳ 2021 - 2030, định hướng đến năm 2050.
Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản làm vật liệu xây dựng thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, cũng như thúc đẩy tiến độ triển khai các dự án đầu tư công, các dự án hạ tầng; đề án đầu tư 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội,…
Thủ tướng nêu rõ, phát triển ngành xi măng, sắt thép, VLXD phải đảm bảo hiệu quả, bền vững, đáp ứng cơ bản nhu cầu trong nước, tăng cường xuất khẩu khi tiêu thụ trong nước giảm sút, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội; tiếp cận và ứng dụng nhanh nhất các thành tựu khoa học, công nghệ, quản lý nhất là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong sản xuất; nâng cao chất lượng sản phẩm; đa dạng hóa các chủng loại sản phẩm chất lượng cao, có giá trị kinh tế cao, đáp ứng nhu cầu xây dựng.
Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên, tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu, nhiên liệu trong sản xuất; khai thác sử dụng tiết kiệm khoáng sản; sử dụng tối đa các chất thải, phế thải của các ngành công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng và chất thải sinh hoạt làm nguyên liệu, nhiên liệu, phụ gia cho quá trình sản xuất; hạn chế tối đa ảnh hưởng tới môi trường trong quá trình khai thác, chế biến khoáng sản và sản xuất VLXD, xi măng, sắt thép.
Cùng với đó, phát huy, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, phát triển xi măng, sắt thép, VLXD; phân bổ mạng lưới cơ sở sản xuất xi măng, sắt thép, VLXD trên toàn quốc phù hợp với điều kiện về tự nhiên, xã hội của từng vùng miền.
Về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thời gian tới, Thủ tướng yêu cầu, các Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp, hiệp hội theo dõi sát, tăng cường năng lực dự báo các yếu tố tác động trong và ngoài nước để có các phương án chủ động ứng phó một cách kịp thời nhằm hỗ trợ doanh nghiệp kinh doanh xi măng, sắt thép, VLXD ổn định sản xuất và mở rộng thị trường.
Đẩy mạnh đầu tư công, xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi, đầu tư phát triển hạ tầng đô thị, nông thôn, các công trình quốc phòng, an ninh; công trình biển và hải đảo phục vụ phát triển kinh tế biển.
Tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản, nhà ở trong đó đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 33/NQ-CP ngày 11/3/2023; tiếp tục thực hiện quyết liệt, kịp thời, hiệu quả các giải pháp thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững.
Tăng cường triển khai Đề án đầu tư xây dựng ít nhất 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp và các chương trình, dự án xây dựng nhà ở khác.
Bên cạnh đó, tăng tỷ lệ lựa chọn phương án sử dụng cầu cạn bê tông cốt thép đối với các dự án đường bộ cao tốc, đặc biệt là ở những vùng có yêu cầu thoát lũ, vùng đất yếu và những vùng thiếu vật liệu đắp nền đường như vùng Đồng bằng sông Cửu Long; tăng cường sử dụng công nghệ gia cố đất bằng xi măng trong xây dựng đường bộ để nâng cao chất lượng, tuổi thọ đường, đồng thời sử dụng nguồn xi măng trong nước.
Tăng cường sử dụng đường bê tông xi măng cho xây dựng đường nông thôn, miền núi và đường tại những vùng thường xuyên ngập lụt.
Thủ tướng đã chỉ rõ các giải pháp cụ thể đối với doanh nghiệp trong đó nhấn mạnh, đầu tư nâng cấp, cải tạo chiều sâu đối với công nghệ, thiết bị của các nhà máy sản xuất VLXD hiện có để tiết giảm chi phí sản xuất, tiết kiệm năng lượng, tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường.
Đầu tư các hệ thống phát điện tận dụng nhiệt dư trong sản xuất các sản phẩm VLXD, đặc biệt là trong các nhà máy sản xuất clanhke và xi măng, để sử dụng cho sản xuất, tiết giảm chi phí điện năng.
Đầu tư sử dụng rác thải để thay thế nhiên liệu đốt, sử dụng phế thải công nghiệp để thay thế nguyên liệu tài nguyên thiên nhiên để giảm chi phí nguyên, nhiên liệu trong sản xuất, hạ giá thành sản phẩm; Đầu tư các trạm nghiền xi măng tại các vùng thuận tiện về giao thông, cảng biển, có nguồn khoáng sản phụ gia làm xi măng, có nguồn phát thải tro, xỉ, thạch cao,…
Cùng với đó đa dạng hóa sản phẩm VLXD, phù hợp các loại hình công trình xây dựng, điều kiện khí hậu khác nhau, đáp ứng như cầu thị trường; Rà soát, cắt giảm chi phí sản xuất đối với nguyên liệu, nhiên liệu than, điện, dầu, khí đốt; Đổi mới, áp dụng công nghệ sản xuất và phương thức quản lý hiện đại, nâng cao năng suất, chất lượng, giảm giá thành sản phẩm; Áp dụng các giải pháp nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng trong sản xuất, tận dụng các nguồn nhiên liệu giá rẻ từ phế thải từ các ngành khác để hạ chi phí sản xuất. Sản xuất VLXD, đặc biệt là clanhke, xi măng, kết hợp giải pháp đồng xử lý rác thải công nghiệp, sinh hoạt để bảo vệ môi trường.
Bên cạnh đó, Thủ tướng yêu cầu tăng cường tiêu thụ VLXD trong nước thông qua triển khai tại các dự án lớn, dự án đầu tư công, công trình xây dựng thủy lợi, phòng chống thiên tai,… cũng như các hộ dân xây dựng, sửa chữa nhà ở đô thị và nông thôn.
Rà soát lại hệ thống đại lý bán hàng; cắt giảm các bộ phận, các khâu trung gian từ nhà máy sản xuất tới khách hàng tiêu thụ sản phẩm; Rà soát tiết giảm các chi phí bán hàng phù hợp; Tìm kiếm, mở rộng thị trường, thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm VLXD với nhiều nước trên thế giới; Các doanh nghiệp VLXD, đặc biệt là xi măng, không hạ giá bán dưới giá thành sản phẩm và đảm bảo cạnh tranh lành mạnh.
Cơ cấu lại nguồn vốn, tiết giảm chi phí để đảm bảo dòng tiền trả nợ ngân hàng và chi phí nguyên, nhiên liệu đầu vào, nhân công và các chi phí khác trong sản xuất; Không sử dụng các nguồn vốn ngắn hạn để đầu tư vào danh mục đầu tư trung và dài hạn; Chủ động trao đổi với các ngân hàng để khoanh, giãn nợ và có kế hoạch, lộ trình trả nợ để đảm bảo an toàn cho hoạt động sản xuất kinh doanh; Sử dụng các nguồn vốn để thanh toán các khoản vay cũ lãi suất cao và vay các khoản vay mới lãi suất thấp để tiết giảm chi phí tài chính.
Thủ tướng giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam rà soát, đánh giá, sửa đổi các quy định về khoanh nợ, giãn nợ, hạ lãi suất ngân hàng đối với các khoản nợ của các doanh nghiệp ngành VLXD cho phù hợp với năng lực thực hiện nghĩa vụ tài chính hiện nay.
Về sử dụng các loại nhiên liệu thay thế từ rác thải và sử dụng các nguyên liệu thay thế là phế thải của các ngành công nghiệp như tro xỉ, thạch cao nhân tạo,… trong sản xuất xi măng và các VLXD khác, Thủ tướng giao Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng xây dựng, ban hành chính sách ưu đãi cụ thể đối với các nhà máy sản xuất xi măng và các nhà máy sản xuất VLXD khác khi sử dụng các loại nhiên liệu thay thế từ rác thải và sử dụng các nguyên liệu thay thế là phế thải của các ngành công nghiệp như tro xỉ, thạch cao nhân tạo trong sản xuất xi măng.
Quy định chặt chẽ trách nhiệm của chủ nguồn thải về chi trả chi phí vận chuyển và xử lý rác thải, tro xỉ, thạch cao để làm nhiên liệu, nguyên liệu trong sản xuất xi măng và sản xuất VLXD khác.
Về chính sách xuất khẩu sản phẩm clanhke xi măng, Thủ tướng giao Bộ Tài chính đề xuất điều chỉnh chính sách thuế để đảm bảo tính cạnh tranh với các nước cùng xuất khẩu, đồng thời phù hợp với Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) về việc không đánh thuế xuất khẩu hàng hóa với các nước ký Hiệp định.
Thủ tướng giao Bộ Xây dựng nghiên cứu đề xuất thiết lập lại Quy hoạch lĩnh vực xi măng để bổ sung vào Luật Quy hoạch (sửa đổi) trong thời gian tới và nghiên cứu thực hiện biện pháp về phòng vệ thương mại, chống bán phá giá đối với các sản phẩm gạch ốp lát, sứ vệ sinh và kính xây dựng nhập khẩu, đảm bảo phù hợp với những quy định trong tự do thương mại của WTO.
Về tăng cường sử dụng cầu cạn bê tông cốt thép trong xây dựng các tuyến đường cao tốc, Thủ tướng giao Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo các chủ đầu tư sử dụng giải pháp cầu cạn bê tông cốt thép đối với các dự án đường bộ cao tốc, đặc biệt là ở những vùng có yêu cầu thoát lũ, vùng đất yếu và những vùng thiếu vật liệu đắp nền đường như vùng Đồng bằng sông Cửu Long, để giảm thiểu lượng cát đắp nền, đảm bảo tiến độ xây dựng với chất lượng tốt, tuổi thọ cao, giảm chi phí bảo trì theo thời gian, giảm tác động môi trường sinh thái, đồng thời cũng là giải pháp “kép” hữu hiệu để tiêu thụ nguồn xi măng trong nước.
Thủ tướng đề nghị các bộ, ngành và địa phương theo chức năng, nhiệm vụ của mình; các doanh nghiệp xi măng, sắt thép, VLXD tập trung triển khai các các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để xử lý, tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, tiêu thụ xi măng, sắt thép, VLXD trong năm 2024 và để phát triển ngành xi măng, sắt thép, VLXD trong thời gian tới.