'Thực phẩm xanh' tạo nên làn sóng bền vững và an ninh ở Đông Á
Trước khủng hoảng khí hậu và khan hiếm nước, Đông Á đang nổi lên với giải pháp thực phẩm xanh – mô hình nuôi trồng thủy sản bền vững giúp cứu hệ thống lương thực thế giới.

Đông Á trở thành hình mẫu toàn cầu trong phát triển thủy sản bền vững giữa biến đổi khí hậu. Trong ảnh: Một ngư dân Nhật Bản tại cảng Soma ở tỉnh Fukushima. Ảnh: Kyodo
Biến đổi khí hậu, suy thoái đất đai và khan hiếm nước ngọt đang đặt ra những thách thức chưa từng có cho an ninh lương thực toàn cầu. Trong bối cảnh đó, khu vực Đông Á đang nổi lên như một hình mẫu tiên phong trong việc phát triển hệ thống thực phẩm bền vững, đặc biệt là thông qua "thực phẩm xanh" – các sản phẩm thủy sản được nuôi trồng và khai thác một cách có trách nhiệm.
Đông Á: Tiên phong trong kỷ nguyên thực phẩm xanh bền vững
Bình luận trên Diễn đàn Đông Á (eastasiaforum.org), Shoba Suri - thành viên cấp cao tại Quỹ nghiên cứu Observer ở New Delhi, Ấn Độ và Subhasree Ray, Trưởng bộ phận Sức khỏe tại Công ty TVS Motor cho rằng Đông Á, với đường bờ biển dài, dân số ven biển đông đúc và mối liên hệ văn hóa sâu sắc với các hệ thống thực phẩm thủy sản, đang ở vị thế độc đáo để dẫn dắt quá trình chuyển đổi toàn cầu hướng tới an ninh lương thực và bền vững môi trường thông qua "thực phẩm xanh". Đây không chỉ là một lựa chọn kinh tế hay môi trường mà còn là một biện pháp can thiệp chiến lược để củng cố khả năng phục hồi của hệ thống lương thực khu vực và toàn cầu.
Thực phẩm xanh không chỉ mang lại nguồn dinh dưỡng dồi dào mà còn có tiềm năng đa dạng hóa nguồn cung cấp lương thực, tăng cường an ninh dinh dưỡng và hỗ trợ thích ứng với biến đổi khí hậu. Trong khi các hệ thống sản xuất lương thực trên cạn đang đối mặt với những hạn chế ngày càng tăng do suy thoái đất, khan hiếm nước ngọt và biến động khí hậu, thực phẩm xanh nổi lên như một giải pháp thay thế đầy hứa hẹn.
Khu vực Đông Á đóng góp phần lớn sản lượng nuôi trồng thủy sản toàn cầu. Đơn cử, Trung Quốc, nước đầu tư và phát triển lĩnh vực thủy sản lớn nhất thế giới, đã chiếm khoảng 35,5% sản lượng cá và hải sản toàn cầu vào năm 2022. Điều này cho thấy vai trò quan trọng của khu vực trong việc cung cấp thực phẩm xanh cho thế giới.
Thách thức và hướng đi mới
Tuy nhiên, việc mở rộng hệ thống thực phẩm xanh không phải là không có thách thức. Nghề đánh bắt thủy hải sản tự nhiên ở Biển Hoa Đông và Biển Hoàng Hải đang bị khai thác quá mức, đòi hỏi sự chuyển đổi từ mô hình mở rộng sang sản xuất tối ưu hóa sinh thái. Ngoài ra, khu vực còn đối mặt với suy thoái bờ biển và ô nhiễm do nuôi trồng thủy sản. Nhật Bản, một quốc gia có truyền thống thủy sản lâu đời, đang chứng kiến trữ lượng cá suy giảm và lực lượng lao động già hóa, đòi hỏi sự chuyển đổi sang nuôi trồng thủy sản giá trị cao, tác động thấp.
Để giải quyết những thách thức này, Đông Á cần ưu tiên nuôi trồng thủy sản dựa trên hệ sinh thái và hiệu quả sản xuất, thay vì chỉ tập trung vào quy mô. Các giải pháp thay thế ít tác động như nuôi trồng thủy sản loại có vỏ và tảo lớn đã phổ biến trong khu vực. Ví dụ, loài có 2 vỏ giúp làm sạch nước và tham gia vào chu trình dinh dưỡng, trong khi rong biển giúp cô lập carbon và giảm áp lực lên cây trồng trên cạn. Các quốc gia trong khu vực cũng đã và đang triển khai nhiều mô hình và sáng kiến đầy hứa hẹn, như:
Trung Quốc đã đạt được sức hút đáng kể với nuôi trồng thủy sản đa dinh dưỡng tích hợp (IMTA), đặc biệt tại Vịnh Sanggou, nơi chiếm khoảng 40% sản lượng nuôi trồng thủy sản của cả nước. Bằng cách nuôi kết hợp các loài như cá mú Nhật Bản, hàu Thái Bình Dương và rong biển Gracilaria, hệ thống IMTA tạo ra các chu trình dinh dưỡng khép kín, giảm thiểu tác động môi trường.
Nhật Bản với các hệ thống nuôi ghép lịch sử đã phát triển thành những mô hình tinh vi, giải quyết các thách thức như tảo nở hoa có hại.
Hàn Quốc đã có những bước tiến đáng kể trong việc thúc đẩy nuôi trồng thủy sản ít carbon, đặc biệt thông qua nuôi trồng rong biển và động vật có vỏ quy mô lớn để cô lập carbon và hỗ trợ hệ sinh thái biển.
Tuy nhiên, việc quản lý hệ thống thực phẩm xanh vẫn còn phân mảnh. Mặc dù Nhật Bản và Hàn Quốc đã phát triển các hệ thống quản lý chặt chẽ, sự chênh lệch trong thực thi vẫn tồn tại ở Trung Quốc, Đài Loan và các khu vực khác, làm suy yếu tính bền vững sinh thái và kinh tế.
Để khai thác toàn bộ tiềm năng của thực phẩm xanh, cần có sự hỗ trợ chính sách có mục tiêu, các ưu đãi thị trường và việc tích hợp hệ thống thực phẩm xanh vào các chiến lược khí hậu và thực phẩm rộng hơn. Một sự chuyển đổi chiến lược hướng tới sản xuất thực phẩm xanh tối ưu hóa có thể tăng cường an ninh lương thực, hỗ trợ các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs) và củng cố vị thế lãnh đạo của Đông Á trong quản lý tài nguyên biển bền vững.