Thuế tối thiểu toàn cầu: Hạn chế tình trạng 'đua xuống đáy' về ưu đãi
Đó là nhận định của chuyên gia kinh tế - TS. Cấn Văn Lực khi nói với PV về tác động của thuế tối thiểu toàn cầu đối với kinh tế và đầu tư của Việt Nam.
Việc áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu đạt chuẩn Việt Nam để đồng hành cùng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (doanh nghiệp FDI) trong việc tuân thủ nghĩa vụ thuế quốc tế và những tác động của chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu (thuế tối thiểu toàn cầu) tới nền kinh tế, đầu tư toàn cầu và Việt Nam đã được các cơ quan chức năng và các chuyên gia kinh tế, tài chính thảo luận khá nhiều trong thời gian vừa qua.
Theo TS. Cấn Văn Lực, việc chủ động tham gia triển khai thuế tối thiểu toàn cầu góp phần tăng cường hội nhập quốc tế của Việt Nam nói chung, cải cách hệ thống thuế theo hướng phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế nói riêng (cạnh tranh bằng môi trường đầu tư - kinh doanh, phát triển cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực).
Bởi thuế tối thiểu toàn cầu góp phần tăng nguồn thu từ thuế để tăng cường đầu tư phát triển kinh tế xã hội, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, hạn chế tình trạng "đua xuống đáy" về ưu đãi thuế của các nước tiếp nhận đầu tư, giảm thiểu các hiện tượng trốn, tránh thuế, chuyển giá... của các tập đoàn đa quốc gia tại Việt Nam.
Còn theo ước tính của Tổng cục Thuế trên cơ sở số liệu quyết toán thuế năm 2021, có khoảng 1.115 doanh nghiệp FDI chịu ảnh hưởng, trong đó có khoảng 70-100 doanh nghiệp thuộc diện "nộp thêm thuế", số thuế thu nhập doanh nghiệp chênh lệch có thể thu thêm khoảng trên 10.000-20.000 tỉ đồng/năm trong năm 2024 (nếu các quốc gia có công ty mẹ đầu tư vào Việt Nam đều áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu).
Tuy nhiên, mức thuế thu thêm này có thể thấp hơn ước tính vì để thực hiện được cần có một hệ thống quản lý thuế hiệu quả, minh bạch hơn và nỗ lực, hiệu quả phối hợp giữa các quốc gia.
Trong bối cảnh các quốc gia láng giềng đang gia tăng hỗ trợ các ưu đãi ngoài thuế nhằm giữ chân, thu hút doanh nghiệp FDI lớn thì Việt Nam cũng sẽ chịu sức ép có cơ chế bồi hoàn, các quy định ưu đãi ngoài thuế để bù đắp phần nào chi phí thuế tăng lên nhằm duy trì khả năng cạnh tranh, giữ chân doanh nghiệp FDI lớn.
TS. Cấn Văn Lực cho rằng, cạnh tranh trong thu hút FDI của Việt Nam có thể bị ảnh hưởng trong ngắn hạn khi chính sách ưu đãi thuế không còn.
Hiện nay, thuế thu nhập doanh nghiệp trung bình của Việt Nam là 20%, song Việt Nam đang áp dụng cơ chế ưu đãi thuế bao gồm: ưu đãi thuế suất (10% lên đến 15 năm và 20% lên đến 10 năm); miễn, giảm thuế có thời hạn (tối đa đến 9 năm); cho phép chuyển lỗ (trong vòng 5 năm); miễn đánh thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài (không áp dụng đối với công ty được đầu tư có lỗ lũy kế); hoàn thuế cho lợi nhuận tái đầu tư; cho phép được khấu hao nhanh...
Tuy nhiên, theo Tổng cục Thuế, hiện nay thuế thu nhập doanh nghiệp thực tế của các doanh nghiệp FDI chỉ là 12,3%, trong đó các tập đoàn lớn nước ngoài chỉ chịu thuế thu nhập doanh nghiệp là 2,75%-5,95%. Do đó, khả năng cạnh tranh trong thu hút FDI của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng phần nào khi khung thuế ưu đãi không còn.
"Như vậy, việc áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu này có thể làm phát sinh chi phí cải cách hệ thống quản lý thuế, thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư và tiến độ triển khai phụ thuộc vào năng lực quản lý của các bộ, ngành, địa phương liên quan do đòi hỏi một hệ thống quản lý thuế có năng lực và nỗ lực phối hợp ở tầm quốc tế cũng là một thách thức lớn đối với các nước đang phát triển với năng lực quản lý thuế thường còn bất cập như Việt Nam", TS. Lực cho hay.
Bên cạnh đó, các nội dung về thuế tối thiểu toàn cầu được thống nhất về mặt nguyên tắc song một số nội dung vẫn được bảo lưu và chưa được quy định, hướng dẫn chi tiết có thể khiến hoạt động của các tập đoàn, doanh nghiệp đa quốc gia bị ảnh hưởng, các rủi ro pháp lý, tranh chấp có thể xảy ra, từ đó ảnh hưởng đến tâm lý nhà đầu tư nước ngoài.
Khi áp dụng quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu, dự kiến nhiều nhà đầu tư sẽ bị ảnh hưởng và trong ngắn hạn, Việt Nam có thể sẽ mất đi một khoản vốn FDI. Vậy để Việt Nam vừa thực thi quy tắc theo đúng cam kết, vừa có môi trường đầu tư hấp dẫn thu hút doanh nghiệp FDI, TS. Lực cho rằng Việt Nam cần có chính sách, biện pháp ứng xử phù hợp đối với 2 nhóm nhà đầu tư: Đối với những nhà đầu tư FDI đang hoạt động tại Việt Nam (có thể có hỗ trợ về tiền thuê đất, cho phép tính một số khoản được khấu trừ thuế, đào tạo nguồn nhân lực, chi phí R&D, giải phóng mặt bằng, nhà ở công nhân...).
Tuy nhiên, nên áp dụng mức độ khác nhau với nhóm nhà đầu tư, loại dự án khác nhau. Đối với những nhà đầu tư FDI sẽ vào Việt Nam từ đầu năm 2024 (có thể áp dụng một số chính sách hỗ trợ tương tự, thậm chí cao hơn đối với các lĩnh vực ưu tiên thu hút FDI).
Bên cạnh đó, Việt Nam cần sớm rà soát, cập nhật và thay đổi phù hợp qui định pháp luật liên quan (như Luật thuế thu nhập DN, Luật ngân sách Nhà nước, Luật đầu tư... ). Có thể xem xét một luật sửa nhiều luật. Đối với cơ chế, chính sách thu hút FDI theo hướng tập trung vào cải thiện mạnh mẽ, thực chất môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, nhất là các vấn đề về thể chế.
Song cũng cần lưu ý chất lượng và thực thi thể chế, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, năng suất lao động, cải cách thủ tục hành chính, giảm mạnh chi phí không chính thức... thay vì áp dụng các ưu đãi về thuế như hiện nay.
Đồng thời, chủ động nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, tạo đòn bẩy cho nâng cao sức chống chịu và phát triển kinh tế bền vững. Tận dụng tốt hơn các cơ hội hội nhập để học hỏi và áp dụng công nghệ mới, chuyển giao công nghệ và thu hút vốn FDI, ODA một cách chủ động, sàng lọc vì mục tiêu chung, thay vì cục bộ, địa phương.
Ưu tiên giải pháp gắn kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước, chú trọng phát triển công nghiệp phụ trợ, đa dạng hóa thị trường, đối tác, có tính chiến lược, chọn lọc rõ ràng nhằm tận dụng cơ hội và hạn chế rủi ro tập trung, rủi ro đứt gãy chuỗi cung ứng.