Thương mại nông sản Việt - Trung tăng tốc, mở rộng dư địa hợp tác
Theo bà Tề Bình, Tổng Giám đốc Tập đoàn Sunwah Gelafood (Hồng Kông - Trung Quốc), thương mại nông sản Việt – Trung đang tăng tốc mạnh nhờ 5 yếu tố: quy mô thị trường lớn, chính sách hỗ trợ, mô hình kinh doanh mới, công nghệ thông minh và triển vọng hợp tác toàn chuỗi giá trị. Với dân số 1,4 tỷ người và tầng lớp trung lưu tăng nhanh, Trung Quốc trở thành thị trường chiến lược của nông sản Việt với những yêu cầu tiêu chuẩn an toàn cao, sản phẩm đa dạng và chất lượng ổn định.
Xung lực mới từ thị trường Trung Quốc
Một mô hình nổi bật giúp nông sản Việt tiếp cận nhanh thị trường Trung Quốc là mua theo nhóm cộng đồng (community group-buying). Mô hình hoạt động theo cụm dân cư, trưởng nhóm đứng ra gom đơn, đặt hàng qua WeChat rồi phân phối tại điểm nhận gần nhất. Cách vận hành này giúp giảm chi phí logistics, tăng tính cạnh tranh về giá, rút ngắn thời gian giao hàng và dự báo nhu cầu chính xác hơn. Đây được xem là kênh tiêu thụ đầy tiềm năng trong bối cảnh thương mại điện tử bùng nổ tại Trung Quốc.
Theo bà Tề Bình, nhiều sản phẩm Việt Nam đang tăng trưởng ấn tượng, đặc biệt là sầu riêng – mặt hàng phù hợp khẩu vị người tiêu dùng bản địa. Tổ yến, trái cây sấy và đồ uống từ nông sản cũng đang mở rộng nhanh thị phần, góp phần củng cố hình ảnh hàng Việt tại thị trường đông dân nhất thế giới.
Ông Lê Thanh Hòa, Phó Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho rằng, Việt Nam đang đóng vai trò quan trọng trong an ninh lương thực toàn cầu, đồng thời hưởng lợi từ các hiệp định thương mại tự do. Kim ngạch thương mại song phương Việt – Trung đến tháng 10/2025 đã vượt 208 tỷ USD. Việt Nam là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc tại Đông Nam Á và đứng thứ 4 toàn cầu. Trong đó, thương mại nông sản duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định. Trái cây, gạo, cà phê, thủy sản, hồ tiêu, cao su… từ Việt Nam đã có mặt tại nhiều tỉnh, thành của Trung Quốc và được người tiêu dùng đón nhận tích cực.
Trung Quốc luôn khẳng định chủ trương mở rộng nhập khẩu nông sản chất lượng cao từ Việt Nam, đặc biệt là trái cây, cà phê, thủy sản và hạt điều. Đây là “cửa sổ cơ hội” để Việt Nam thúc đẩy sản phẩm chế biến sâu, tăng tỷ lệ nội địa hóa và mở rộng sự hiện diện tại các đô thị lớn ở Trung Quốc.

Chìa khóa chinh phục thị trường 1,4 tỷ dân
Ông Lê Xuân Đắc, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Đầu tư - Sản xuất - Kinh doanh Đặc Ân nhấn mạnh, doanh nghiệp muốn xuất khẩu nông sản, thủy sản và dược liệu sang Trung Quốc cần đạt tiêu chuẩn GACC - hệ thống đăng ký và quản lý doanh nghiệp xuất khẩu của Tổng cục Hải quan Trung Quốc.
Đến năm 2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã cấp 3.013 mã số doanh nghiệp đủ điều kiện xuất vào Trung Quốc; phía Trung Quốc xác nhận 2.426 mã số, cấp 828 mã số vùng trồng và 113 mã số cơ sở đóng gói. Đây là nền tảng quan trọng để nông sản Việt tăng tốc xuất khẩu chính ngạch, hạn chế rủi ro ùn ứ biên giới như giai đoạn trước.
Ông Đắc kể câu chuyện khi học tại Bắc Kinh, một người bạn làm kẹo dừa Bến Tre từng nói: “Nếu mỗi người Trung Quốc ăn một cái kẹo dừa mỗi ngày, tôi sẽ thành tỷ phú”. Câu nói vui nhưng phản ánh chính xác quy mô tiêu thụ khổng lồ của thị trường Trung Quốc. Ông cũng dẫn trường hợp Hoàng Anh Gia Lai, năm 2025 đã xuất khẩu được 7.000 ha chuối sang Trung Quốc.
Ông cũng khuyến nghị doanh nghiệp cần đăng ký GACC sớm, kể cả khi chưa hoàn tất mã số vùng trồng hay cơ sở đóng gói. Các cơ quan quản lý của Việt Nam và Trung Quốc hiện rất cởi mở, hỗ trợ tích cực để doanh nghiệp hoàn thiện hồ sơ.
Để nâng tầm hợp tác, ông Lê Thanh Hòa cho biết, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã đề xuất loạt giải pháp để nâng cao sức cạnh tranh và đẩy mạnh xuất khẩu nông sản Việt sang thị trường Trung Quốc. Có thể kể đến như tăng cường xúc tiến thương mại, quảng bá nông sản, tổ chức kết nối doanh nghiệp tại các hội chợ lớn, hợp tác kỹ thuật trong kiểm dịch, an toàn sinh học, truy xuất nguồn gốc; tăng phối hợp quản lý biên giới… Đồng thời, đẩy mạnh liên kết đầu tư chuỗi giá trị, tập trung vào chế biến sâu, logistics lạnh, thương mại điện tử; hình thành trung tâm phân phối tại Trung Quốc và khu chế biến gần biên giới.
Theo ông Hòa, thương mại nông sản Việt – Trung không chỉ mang ý nghĩa kinh tế mà còn cho thấy sự tin cậy chiến lược giữa 2 nước. Còn bà Tề Bình nhận định, Việt Nam có sản phẩm chất lượng cao, Trung Quốc có thị trường và công nghệ – sự bổ trợ này tạo dư địa hợp tác khổng lồ trong tương lai. Trong bối cảnh ASEAN – Trung Quốc thúc đẩy liên kết sâu rộng, Việt Nam và Trung Quốc hoàn toàn có thể hướng tới hình thành một chuỗi cung ứng nông sản hiện đại, bền vững, đóng góp tích cực vào an ninh lương thực khu vực.














