Thương mại Việt Nam - Nhật Bản tăng trưởng ấn tượng, khẳng định vị thế đối tác hàng đầu
Với kim ngạch xuất khẩu 11 tháng năm 2025 đạt 24,4 tỷ USD, tăng 8,6% so với cùng kỳ, Nhật Bản tiếp tục khẳng định vị thế là đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam. Tuy nhiên, để thâm nhập sâu hơn vào thị trường này, doanh nghiệp Việt cần vượt qua hàng loạt rào cản kỹ thuật nghiêm ngặt và thích ứng với thị hiếu tiêu dùng khó tính bậc nhất thế giới.…

Cán cân thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản tương đối cân bằng. Ảnh minh họa.
XU HƯỚNG TĂNG TRƯỞNG TÍCH CỰC
Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản, được thiết lập từ năm 1973, đã phát triển thành mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện kể từ năm 2023. Nhật Bản không chỉ là đối tác thương mại hàng đầu mà còn là nhà đầu tư lớn và nhà tài trợ ODA quan trọng nhất của Việt Nam trong nhiều năm qua.
Tại Hội thảo "Thúc đẩy hợp tác thương mại Việt Nam với Nhật Bản, Hàn Quốc trong giai đoạn mới", do Bộ Công Thương tổ chức tại TP Hồ Chí Minh ngày 15/12/2025, ông Nguyễn Mạnh Đồng, Chuyên viên Vụ Phát triển thị trường nước ngoài (Bộ Công Thương) cho biết năm 2024, Nhật Bản là đối tác thương mại lớn thứ 4 của Việt Nam, đồng thời là thị trường xuất khẩu và nhập khẩu lớn thứ 4, với cán cân thương mại tương đối cân bằng.
Trong 11 tháng năm 2025, xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 24,4 tỷ USD, tăng 8,6% so với cùng kỳ năm 2024, chiếm 5,7% tổng kim ngạch xuất khẩu. Nhập khẩu từ Nhật Bản đạt 22,4 tỷ USD, tăng 14,1% so với cùng kỳ, chiếm 5,5% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam.
Cơ cấu hàng hóa giữa hai nước mang tính bổ sung cao, ít cạnh tranh trực tiếp. Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang Nhật Bản các mặt hàng may mặc, giày dép, thủy sản, nông sản, trong khi nhập khẩu từ Nhật Bản các mặt hàng máy móc, thiết bị, sắt thép, phương tiện vận tải, hóa chất và nhựa nguyên liệu.
Quan hệ thương mại song phương được hưởng lợi lớn từ các hiệp định thương mại tự do, bao gồm VJEPA, AJCEP, CPTPP và RCEP, giúp hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản cơ bản có lợi thế về thuế quan.
Về đầu tư, trong 11 tháng năm 2025, Nhật Bản đứng thứ 4 trong số các đối tác đầu tư lớn vào Việt Nam với 3,57 tỷ USD, chiếm 10,6% tổng vốn đăng ký, sau Singapore, Trung Quốc và Hàn Quốc. Tính lũy kế đến tháng 11/2025, Nhật Bản có 5.698 dự án còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký 79,27 tỷ USD, chiếm 15% tổng vốn FDI vào Việt Nam.
Cơ cấu đầu tư của Nhật Bản tập trung vào công nghiệp chế biến, chế tạo (61%), sản xuất và phân phối điện - khí - nước (15%), bất động sản (10,8%). Một số dự án tiêu biểu như Lọc dầu Nghi Sơn (9 tỷ USD), Thành phố thông minh Đông Anh (4,1 tỷ USD), Nhiệt điện BOT Nghi Sơn 2 (2,8 tỷ USD) đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của Việt Nam.
Theo số liệu từ Hải quan Nhật Bản, trong 10 tháng năm 2025, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Nhật Bản với thế giới đạt gần 184.000 tỷ Yên (khoảng 1.200 tỷ USD), tăng 0,78% so với cùng kỳ. Trong đó, kim ngạch nhập khẩu đạt hơn 93.000 tỷ Yên (gần 600 tỷ USD), giảm 0,52% so với cùng kỳ năm 2024.
Đáng chú ý, tỷ trọng nhập khẩu từ Việt Nam vào Nhật Bản đã tăng từ 3,6% năm 2024 lên khoảng 4% trong năm 2025, cho thấy xu hướng gia tăng rõ nét. Hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam nhìn chung có mức tăng trưởng cao hơn mức tăng trưởng nhập khẩu chung của Nhật Bản từ thế giới, đây là tín hiệu tích cực cho triển vọng xuất khẩu của Việt Nam.
RÀO CẢN KỸ THUẬT KHẮT KHE LÀ THÁCH THỨC LỚN
Từ Nhật Bản, chia sẻ với các Doanh nghiệp tham dự tội thảo, bà Phạm Minh Hà, Bí thư thứ nhất, Tham tán Thương mại, Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản, nhấn mạnh rằng rào cản lớn nhất đối với hàng hóa Việt Nam tại thị trường Nhật Bản không nằm ở thuế quan, mà chủ yếu là các hàng rào phi thuế quan, đặc biệt là các biện pháp về vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động, thực vật.
Đối với nông sản và thủy sản, quy định quan trọng nhất là Luật Vệ sinh An toàn Thực phẩm, trong đó trọng tâm là kiểm soát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và thuốc thú y. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu khiến một số lô hàng của Việt Nam bị từ chối nhập khẩu do không đáp ứng mức dư lượng tối đa cho phép.
Về kiểm dịch thực vật, Nhật Bản áp dụng quy trình rất nghiêm ngặt. Tùy từng loại sản phẩm, có những loại rau củ hoàn toàn không được phép nhập khẩu vào Nhật Bản. Các sản phẩm tiêu dùng bắt buộc phải tuân thủ Luật An toàn sản phẩm tiêu dùng và các tiêu chuẩn ghi nhãn của Bộ Nông nghiệp Nhật Bản.
Đối với máy móc, thiết bị, linh kiện điện tử, doanh nghiệp phải đáp ứng các quy định về đánh giá sự phù hợp, bao gồm các tiêu chuẩn PSE, PSE-MAC và G-MOC. Trong đó, G-MOC là yêu cầu ghi nhãn về sự hiện diện của các hóa chất độc hại như chì và thủy ngân trong các thiết bị điện và điện tử.
Với ngành dệt may, mặc dù nhiều tiêu chuẩn mang tính tự nguyện như JIS hoặc FSA, nhưng người tiêu dùng Nhật Bản yêu cầu chất lượng gần như tuyệt đối, kể cả với các chi tiết rất nhỏ. Sản phẩm dệt may còn phải tuân thủ quy định hạn chế hóa chất, đặc biệt là formaldehyde, thuốc nhuộm gây ung thư và các dung môi độc hại khác, đồng thời phải đáp ứng quy tắc xuất xứ "từ sợi trở đi" trong CPTPP - được đánh giá là khá chặt chẽ.
“Một điểm đặc biệt cần lưu ý là quy định về sinh vật biến đổi gen (GMO). Từ năm 2023, Nhật Bản đã hạ ngưỡng cho phép từ 5% xuống mức "không thể phát hiện", yêu cầu doanh nghiệp phải áp dụng quy trình quản lý và tách biệt rất nghiêm ngặt. Đối với nhãn hữu cơ, sản phẩm bắt buộc phải được chứng nhận theo tiêu chuẩn hữu cơ JAS của Nhật Bản, thay vì chấp nhận chứng nhận của nước xuất khẩu.
Riêng với sản phẩm gỗ, từ năm 2025 có hai yêu cầu đặc biệt quan trọng. Thứ nhất, sửa đổi Luật Gỗ sạch, theo đó trách nhiệm chứng minh tính hợp pháp của nguồn gỗ sẽ chuyển hoàn toàn sang nhà cung cấp nước ngoài, bao gồm việc thiết lập hệ thống truy xuất nguồn gốc rõ ràng. Thứ hai, tiêu chuẩn phát thải formaldehyde, trong đó Nhật Bản đang áp dụng mức nghiêm ngặt nhất thế giới - tiêu chuẩn F4 sao”.
TẬN DỤNG CƠ HỘI TỪ NẮM BẮT THỊ HIẾU TIÊU DÙNG NHẬT BẢN
Tham tán Thương mại Việt Nam tại Nhật Bản thông tin, thị hiếu tiêu dùng tại Nhật Bản hiện đang chịu tác động mạnh từ già hóa dân số, với tỷ lệ người trên 65 tuổi chiếm hơn 30%, kéo theo sự thay đổi rõ nét trong hành vi tiêu dùng. Người tiêu dùng Nhật Bản đặc biệt quan tâm đến an toàn và truy xuất nguồn gốc, sẵn sàng trả giá cao cho các sản phẩm sạch, an toàn, minh bạch.
Xu hướng tiêu dùng xanh, sản phẩm hữu cơ và sản phẩm chăm sóc sức khỏe đang mở rộng rất nhanh, tạo ra cơ hội lớn cho các sản phẩm nhiệt đới như cà phê rang xay, hạt điều, trái cây chế biến. Xu hướng địa phương hóa và tiêu dùng tiện lợi cũng khiến thực phẩm chế biến sâu, thực phẩm sẵn sàng sử dụng có nhu cầu ngày càng cao.
Về bao bì, bà Hà cho biết cần đầy đủ thông tin, thiết kế đơn giản, tinh tế có thể tăng khả năng tiêu thụ từ 20-30%. Khoảng 60% người tiêu dùng Nhật Bản ưu tiên sản phẩm có bao bì bền vững. Do không gian sống nhỏ, bao bì kích thước nhỏ gọn được ưa chuộng hơn.
Một kênh bán lẻ mới đang nổi lên là chuỗi cửa hàng dược phẩm, được đánh giá là kênh quan trọng để tiếp cận người cao tuổi, đặc biệt phù hợp với hạt, quả sấy và thực phẩm chức năng.
Bà Hà nhận định: trong thời gian tới, triển vọng xuất khẩu sang Nhật Bản vẫn rất tích cực, đặc biệt đối với các mặt hàng như đồ gỗ, may mặc, nông - thủy sản, thực phẩm chế biến; rau quả đông lạnh, chế biến sâu; thực phẩm chế biến sẵn; các sản phẩm phục vụ cộng đồng người Việt tại Nhật và cơ hội thay thế hàng nội địa Nhật Bản trong bối cảnh lạm phát.
Từ thực tiễn làm việc, đại diện Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản đề xuất một số khuyến nghị đối với doanh nghiệp xuất khẩu.
Thứ nhất, thường xuyên cập nhật và tuân thủ các quy định nhập khẩu, đặc biệt là kiểm soát chất lượng đầu vào, dư lượng hóa chất và chuẩn bị hồ sơ chứng nhận từ sớm.
Thứ hai, xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn, không tiếp cận thị trường Nhật Bản theo tư duy ngắn hạn. Đây là thị trường có yêu cầu chất lượng cao nhất thế giới, nhưng đồng thời cũng mang lại lợi ích bền vững cho những doanh nghiệp có chiến lược tiếp cận phù hợp và dài hạn.
Thứ ba, đầu tư nâng cấp công nghệ sản xuất, quản trị, tiêu chuẩn lao động và môi trường, nhằm đáp ứng yêu cầu xã hội - môi trường ngày càng cao.
Thứ tư, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tận dụng tối đa các chương trình hỗ trợ và tham gia các hội chợ, triển lãm quốc tế tại Nhật Bản.
Bà Hà nhấn mạnh: về dài hạn, thị trường Nhật Bản đang mở rộng mạnh mẽ nhu cầu đối với sản phẩm nhập khẩu sạch, an toàn, tiện lợi và chất lượng cao. Đây là thời điểm rất tốt để doanh nghiệp Việt Nam đầu tư bài bản, xây dựng thương hiệu và gia tăng bền vững xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản.












