Thương nhân xuất khẩu gạo gặp khó
Vốn tín dụng, thuế giá trị gia tăng 5% và khâu lưu thông là nguyên nhân chính gây khó khăn cho các thương nhân sản xuất, xuất khẩu gạo.
Nội dung trên được Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) đưa ra tại hội nghị sơ kết sản xuất trồng trọt năm 2025, triển khai kế hoạch sản xuất vụ đông xuân 2025 - 2026 tại các tỉnh, thành phía Nam, do ngành nông nghiệp Việt Nam tổ chức sáng 9/9.

Các thương nhân sản xuất, xuất khẩu gạo vẫn còn gặp nhiều khó khăn như vốn tín dụng, thuế giá trị gia tăng và khâu lưu thông.
Theo VFA, năm 2025 ngành lúa gạo Việt Nam nhận được nhiều sự quan tâm và hỗ trợ từ Chính phủ, các Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan địa phương trong việc hoàn thiện chính sách, hỗ trợ tài chính và tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất và xuất khẩu gạo.
Tuy nhiên, các thương nhân xuất khẩu gạo vẫn còn gặp nhiều khó khăn như vốn tín dụng: doanh nghiệp khăn tiếp cận nguồn vốn tín dụng, nhất là nguồn vốn tín chấp; hạn mức tín dụng cho ngành lúa gạo còn thấp, các ngân hàng không thể chủ động mở thêm hạn mức tín dụng (theo thời điểm) gây ảnh hưởng đáng kể tiến độ thu mua, đặc biệt vào thời điểm thu hoạch chính vụ.
VFA cho rằng, việc áp dụng thuế GTGT từ ngày 1/7 vừa qua theo Luật Thuế giá trị gia tăng số 48 đối với mặt hàng gạo đã và đang tạo ra một số khó khăn như: nguồn vốn và chi phí sản xuất của doanh nghiệp tăng khi phải nộp thuế GTGT 5% đối với hàng hóa mua bán ở khâu thương mại, trong khi các tổ chức tín dụng không giải ngân phần thuế này khi cấp vốn lưu động, gây áp lực tài chính và giảm hiệu quả kinh doanh. Khả năng doanh nghiệp cung ứng lợi dụng kẽ hở, chiếm dụng thuế GTGT, gây thất thoát ngân sách nhà nước, khiến quá trình hoàn thuế GTGT của các doanh nghiệp xuất khẩu bị ách tắc.
Đối với khâu lưu thông, ngoài hệ thống hợp tác xã, lực lượng thương lái (hàng xáo) vẫn vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng lúa gạo. Đây là lực lượng có kinh nghiệm, am hiểu về giống lúa, mùa vụ, thời gian sấy và xay xát, đồng thời có phương tiện vận chuyển và khả năng bám sát vùng nguyên liệu. Doanh nghiệp xuất khẩu khó có thể thay thế vai trò này do hạn chế về nhân lực và tài chính.
Tại hội nghị, VFA kiến nghị Cục Trồng trọt và Bảo vệ Thực vật - Bộ Nông nghiệp và Môi trường cung cấp thông tin sớm về cơ cấu giống gieo sạ và tiến độ thu hoạch của các vụ mùa, nhằm giúp các bộ, ngành liên quan có cơ sở để cân đối cung - cầu, điều hành xuất khẩu và xúc tiến thương mại phù hợp. Các doanh nghiệp căn cứ thông tin dự báo để xây dựng kế hoạch kinh doanh phù hợp và hiệu quả.
Theo kế hoạch, xuất khẩu ổn định trên 7 - 7,5 triệu tấn, lũy kế xuất khẩu gạo đến ngày 31/7 đạt 5,510 triệu tấn, trị giá 2,827 tỷ USD, so với cùng kỳ 2024 tăng 3,87% về số lượng và giảm 15,38% về trị giá. Kế hoạch 5 tháng cuối năm là 1,5 - 2,0 triệu tấn.
Các thị trường xuất khẩu gạo chính của Việt Nam như: Philippines 2.439 tấn, chiếm 44,27%; Bờ Biển Ngà 649 tấn, chiếm 11,78%; Ghana 587 tấn, chiếm 10,65%; China 497 tấn, chiếm 9,02%; Malaysia 294 tấn, chiếm 5,34%; các nước khác 1.044 tấn, chiếm 18,94%.

VFA kiến nghị ngành nông nghiệp và môi trường cung cấp thông tin sớm về cơ cấu giống gieo sạ và tiến độ thu hoạch của các vụ mùa, để xây dựng kế hoạch kinh doanh phù hợp và hiệu quả.
VFA cho biết thêm, trong bối cảnh ngày càng nhiều quốc gia trên toàn cầu chú trọng đến vấn đề bảo vệ môi trường và giảm phát thải khí nhà kính, việc xuất khẩu gạo carbon thấp của Việt Nam đang trở thành một yếu tố rất được quan tâm. Chính phủ và Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã triển khai thí điểm mô hình sản xuất lúa carbon thấp tại một số tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.
Tuy nhiên, quy mô sản xuất còn nhỏ, mới dừng ở phạm vi thí điểm, chưa hình thành chuỗi cung ứng carbon thấp đồng bộ. Chưa có cơ chế hỗ trợ rõ cho doanh nghiệp và nông dân trồng lúa theo mô hình này. Để phát triển khả năng xuất khẩu gạo carbon thấp, cần có sự phối hợp giữa các cơ quan ngành nông nghiệp, địa phương và nông dân, cùng với việc tổ chức các chương trình quảng bá xây dựng thương hiệu cho gạo carbon thấp trên thị trường thế giới.
Ông Nguyễn Quốc Mạnh - Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cho biết, xuất khẩu gạo của Việt Nam trong 5 năm gần đây tăng trưởng ổn định cả về sản lượng và giá trị, năm 2020 sản lượng gạo Việt Nam xuất khẩu đạt 6,25 triệu tấn thu về 3,12 tỷ USD. Đến năm 2024 đã xuất khẩu 9,03 triệu tấn mang về 5,6 tỷ USD, đây là giá trị cao nhất từ trước đến nay. Giá trung bình xuất khẩu năm 2024 đạt 627,19 USD/tấn, tăng 52,18 USD so với năm 2023.
Lượng gạo xuất khẩu từ đầu năm đến 15/8 vừa qua đạt 5,87 triệu tấn, trị giá 3,00 tỷ USD, so với cùng kỳ 2024 tăng 2,9% về số lượng và giảm 16% về trị giá. Về chủng loại gạo xuất khẩu: Nhóm giống ĐT8/OM18 chiếm tỷ lệ cao nhất với 35,17% tương đương 3,18 triệu tấn; OM5451 với 25,06% tương đương 2,24 triệu tấn.