Tiếc nhớ GS Nguyễn Hồng Phong...
Giáo sư Nguyễn Hồng Phong tên thật là Trịnh Công Hồng, sinh ở Hà Nam. Từ năm 1948 ông tham gia Hội Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác. Năm 1956, ông về công tác tại Ban Nghiên cứu Văn Sử Địa, tiền thân của Viện Khoa học xã hội ngày nay. Tại đây, ông đã cùng tham gia biên soạn bộ 'Sơ thảo lịch sử Văn học Việt Nam' gồm 5 tập.
GS. Nguyễn Hồng Phong đã nghiên cứu và công bố nhiều công trình khoa học có giá trị như: "Truyện tiếu lâm Việt Nam: lý luận và tuyển tập", "Xã thôn Việt Nam", "Tìm hiểu tính cách dân tộc".
Cuốn "Xã thôn Việt Nam" của ông xuất bản năm 1959 là tác phẩm đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện về nông thôn Việt Nam dưới góc độ sử học và dân tộc học. Năm 1963, GS cho ra đời cuốn "Tìm hiểu tính cách dân tộc". Sau khi ông qua đời, hai cuốn sách di cảo của ông: "Văn hóa Chính trị Việt Nam - truyền thống và hiện đại", và cuốn "Một số vấn đề về hình thái kinh tế xã hội, văn hóa và phát triển" mới được xuất bản.
Những buổi sáng mùa đông thập niên 1970-1980, căn biệt thự số 6 Lý Thường Kiệt, Hà Nội luôn vắng vẻ và yên tĩnh lạ lùng. Căn phòng 40m2 mà hai chú cháu ngồi làm việc thường nhanh chóng trở nên chật chội.
GS Hồng Phong luôn đi từ đầu này đến đầu kia căn phòng khi hùng biện giảng giải cho tôi nghe về một vấn đề gì đó. Ông luôn cảm thấy khó chịu khi đang theo đuổi cái mạch tư tưởng của mình thì bước chân bỗng chạm tới bức tường và phải quay lại.
Tôi ngồi yên lặng ở trên ghế chỗ bàn nước, một cuốn vở mở ra trước mặt và nghe như nuốt từng lời của ông. Trên tay ông không bao giờ có một tờ giấy nào, nhưng khi đọc lại những ghi chép, tôi luôn cảm thấy đó là những bài viết cực kỳ hoàn chỉnh, sâu sắc và sinh động.
Đề tài của những bài giảng luôn đến thật bất chợt: có thể đó là "Chủ nghĩa hiện sinh" với J-P Sartre, Albert Camus, là "Cấu trúc luận và Lý thuyết ngôn ngữ" của Ferdinand de Saussure, là "Thuyết tương đối", là "Chủ nghĩa hiện thực vô bờ bến "của Garaudy, "Phân tâm học của Freud", "Mỹ học Hegel" , là "Toán học trong mối quan hệ với Văn chương và Triết học", là "Tính cách Dân tộc Việt".
Ông cũng dạy tôi cách làm sao có thể đắm mình được trong một bài thơ, cảm nhận được những tín hiệu phát ra từ những cảm xúc và đánh giá được thẩm mỹ của một tác giả. Nói tóm lại ngày hôm đó ông đang nghĩ gì, đang quan tâm đến vấn đề gì, ông sẽ nói với tôi về chuyện đó.
Giai đoạn cuối khi tôi chuẩn bị tốt nghiệp khoa Toán, Đại học Tổng hợp Hà Nội, ông hay nói cho tôi nghe về "Xã hội học", một ngành nghiên cứu mới mẻ mà ông rất tâm đắc. Ông muốn tôi sử dụng công cụ toán học để thâm nhập vào đó.
GS Hồng Phong có một số công trình đã xuất bản thành sách: "Truyện tiếu lâm Việt Nam: lý luận và tuyển tập", "Xã thôn Việt Nam", "Tìm hiểu tính cách dân tộc, Văn hóa Chính trị Việt Nam - truyền thống và hiện đại", "Một số vấn đề về hình thái kinh tế - xã hội, văn hóa và phát triển"… Người am hiểu ông, gần gũi ông đều nhận thấy các tác phẩm này đều “thấp tầm”hơn nhiều so với trí tuệ của ông, con người ông. Giữa ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói của ông có một độ chênh lệch rất xa nhau. Tôi cũng không bao giờ lý giải nổi điều này.
Trong kháng chiến chống Pháp, mới ngoài 20 tuổi ông đã là một trong những người giữ trọng trách trong Hội nghiên cứu và truyền bá Chủ nghĩa Mác ở Việt Nam (một tổ chức công khai thay cho Đảng Cộng sản Đông Dương, khi ấy tự tuyên bố giải tán để lui vào bí mật). Năm 1956 ông là một trong những người tham gia sáng lập ban Văn - Sử - Địa rồi Viện Sử học (1960), làm việc bên cạnh những tên tuổi lớn nhất của nền khoa học xã hội ở miền Bắc lúc đó.
Là người luôn khao khát tìm kiếm cái mới, ông không bao giờ muốn đi lại, “thâm canh lại” trên những con đường cũ. Một cuốn sách gì đó của ông có đụng chạm đến “chữ Nhàn trong tính cách người Việt". Cuốn sách làm ông bị “thất sủng”.
Vị trí chính thức của ông ở Viện Sử học là Trưởng phòng Tư liệu, phụ trách thư viện và tổ chức biên soạn hay dịch tài liệu. Chính vì thế ông có cơ hội quản lý một kho tư liệu rất quý, kể cả những đầu sách xuất bản ở Miền Nam.
Dương Tường, Trần Dần và nhiều người bạn khác thường đến nhận tài liệu từ ông về dịch như một phương cách để có thêm thu nhập cho cuộc sống đang vô cùng khó khăn của mấy cựu thành viên “Nhân Văn Giai Phẩm”.
Một đôi lần tôi có cái may mắn được chạm mặt nhà thơ Trần Dần tại nhà GS Hồng Phong. Bao giờ cũng có một ai đó đèo nhà thơ đến trước nhà số 6 Lý Thường Kiệt. Trần Dần tập tễnh bước vào sân và dừng lại trước cửa. Nếu ông Hồng Phong ở nhà, hai người sẽ đứng trao đổi gì đó rất ngắn gọn dưới gốc cây khế sát cửa. Chưa một lần tôi thấy ông Trần Dần bước vào nhà GS Hồng Phong.
Thực sự lúc đó tôi cũng rất khao khát được tiếp chuyện, được làm quen với Trần Dần, nhà thơ nổi tiếng nhưng... không dám. Suốt đời tôi sẽ không quên được ánh mắt của con người ấy: tia nhìn sáng rực, đầy ngạo mạn và u uất.
Trong phương pháp dạy dỗ của GS Hồng Phong, ngoài chuyện trực tiếp nghe ông nói, ông còn yêu cầu đọc rất nhiều những tài liệu mà ông chọn lựa cho. Những năm khi tôi vào đại học, những tài liệu ông yêu cầu tôi đọc khi đó hầu hết là những lý thuyết mới của Phương Tây, ở Việt Nam khi đó thì hầu như chưa mấy ai biết đến.
Lúc đó, tôi chưa đọc thành thạo một ngoại ngữ nào, tài liệu ông Hồng Phong giao cho đọc là những tập đánh máy trên giấy pơ - luya, những bản dịch của các tài liệu mới ông đặt hàng để dịch ra làm tư liệu cho Viện Sử học và cho cá nhân ông.
Những bản dịch của Trần Dần làm tôi khiếp sợ nhất. Dù nỗ lực đến mức tối đa, đọc đi đọc lại, tôi cũng không thể hiểu ông Trần Dần viết gì, dịch gì. Một phần ba số lượng từ ngữ trong các bản dịch là do ông Trần Dần tự sáng chế ra. Chúng chưa bao giờ và sẽ không bao giờ có mặt trong các cuốn từ điển Tiếng Việt.
Giờ đây thì tôi đã hiểu, ông Trần Dần không dịch, đó là một kiểu “nhật ký đọc sách”. Ông ấy đâu cần ai hiểu. Ông ấy cũng chẳng cần dùng chung từ ngữ với những người khác. Từ ngữ với ông cũng chỉ như một thứ ký tự/ mật mã ghi lại cảm xúc của mình và mãi sẽ chỉ là thế giới riêng của ông. Giống như thơ ông vậy.
Thời đó, căn nhà của GS Hồng Phong và vợ là nữ nhà văn Ngọc Trai (ban phê bình lý luận báo Văn Nghệ) được xem là một trong những “salon văn học” tinh hoa của Hà Nội. Tôi được ban một “đặc ân” là được phép ngồi “hóng chuyện” ở đó. Nguyên tắc bất di bất dịch: phải ngồi ở một góc xa, yên lặng lắng nghe, nghiêm cấm xen vào hay hỏi han gì, chỉ được hỏi khi khách đã ra về.
Những vị khách ban ngày thường là GS Vũ Khiêu, nhà nghiên cứu Hán Nôm Vũ Hoàng Địch (em trai Vũ Hoàng Chương), đạo diễn Đình Quang (cậu tôi), nhà điêu khắc Diệp Minh Châu và một vài ông đạo diễn điện ảnh lớn tuổi mà giờ đây tôi không còn nhớ tên. Buổi tối thì thường là nhà văn Nguyễn Tuân lộc cộc bước vào với cây ba toong bất hủ của ông, đôi khi là nhà triết học Trần Đức Thảo, một người rất kiệm lời.
Giờ đây tôi vẫn còn ấn tượng mạnh về chất trí tuệ, sự vui đùa hóm hỉnh và tình bạn chân thành của những trí thức ấy. Dù đó là một cuộc đàm đạo quanh ấm trà hay một bữa rượu, những cuộc gặp mặt của họ không bao giờ nhuốm cái khí vị xô bồ tạp nham hay bỗ bã trong giới "văn chương" như chúng ta thường gặp bây giờ.
Quá trình theo học của tôi với GS Hồng Phong đột ngột rẽ sang một hướng khác và dừng lại hẳn vào những năm đầu thập niên 80. Khi đó ông rơi vào một tiếng sét ái tình và có quan hệ tình cảm với một người thiếu phụ xinh đẹp, một nghệ sĩ piano – một thứ "tomber amoureux", (điều gì “tế nhị” thì thầy tôi và các bạn bè của ông thường hay nói với nhau bằng tiếng Pháp). Ông ly thân với vợ và dọn ra sống trong một căn phòng chật hẹp ở Viện Sử học.
Và tất nhiên ông có những niềm vui mới cũng như những lo toan mới. Tôi tự cảm thấy ngại ngần không dám đến cái căn phòng chật hẹp, không gian riêng tư của hai con người đang say đắm ấy để làm phiền ông nữa.
Sau 10 năm dạy học ở nước ngoài, tôi mới trở về Hà Nội. Tôi không còn cơ hội nào để gặp lại thầy tôi, GS Nguyễn Hồng Phong nữa. Ông đã mất trước đó ít lâu bởi căn bệnh tiểu đường quái ác.
Nguồn VNCA: http://vnca.cand.com.vn/tu-lieu-van-hoa/tiec-nho-gs-nguyen-hong-phong-615690/