Tiếng nói từ bản làng (Bài 1): Những con đường mang theo no ấm
Ở các xã vùng cao biên giới xứ Thanh, đường sá không chỉ là lối đi lại, giao thương, kết nối văn hóa mà còn là 'nhịp cầu' đưa đồng bào các dân tộc thiểu số (DTTS) đến gần hơn với ước mơ về cuộc sống ấm no. Từ những buổi họp bản canh khuya với bao kiến nghị, mong mỏi, đến tiếng nói cử tri được các đại biểu HĐND tỉnh lắng nghe, tiếp thu, rồi đưa vào nghị quyết, bố trí nguồn vốn đầu tư. Con đường mới hình thành, mang theo sự đổi thay, minh chứng cho kết quả của sự thấu hiểu, nghĩa tình!

Một góc bản Mùa Xuân mới với hạ tầng điện, đường, trường được đầu tư đồng bộ. Ảnh: Đình Giang
Khi cử tri gửi gắm niềm mong mỏi
Tôi vẫn nhớ rất rõ chuyến ngược biên lên 3 bản người Mông ở Ché Lầu (xã Na Mèo); Xía Nọi, Mùa Xuân (xã Sơn Thủy) cách đây hơn 10 năm cùng các anh chị em đồng nghiệp. Con đường dẫn lên bản khi ấy lởm chởm đá sỏi, trơn trượt. Người dẫn đường, cán bộ văn hóa xã lúc này cứ chần chừ, lo lắng sợ không đi nổi. Nhưng với chúng tôi, quyết tâm hiện rõ trên gương mặt. Cùng lắm bỏ xe lại, cuốc bộ, leo đồi. Khi ấy, lên được bản Ché Lầu là cả một hành trình dài về thời gian, thấm mệt về sức lực. Muốn đi tiếp sang các bản Xía Nọi, Mùa Xuân thì bắt buộc phải sang những ngày kế tiếp.
Các bản người Mông ở nơi đây vốn di cư từ huyện Mường Lát cũ xuống vào đầu thập niên 1990. Bà con người Mông chủ yếu sinh sống rải rác dọc tuyến biên giới, ở những vùng cao, giáp với nước bạn Lào. Nơi cư trú là rừng đầu nguồn, khe suối, rừng phòng hộ, vừa hiểm trở vừa có vai trò trọng yếu về an ninh - quốc phòng. Vì vậy, làm sao cho bà con bỏ tập tục du canh, du cư, không còn nạn chặt phá rừng, tiến tới ổn định phát triển, xây dựng cuộc sống ấm no là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Trong căn nhà gỗ mái pơ mu truyền thống, nguyên trưởng bản Ché Lầu Thao Văn Mai đến nay vẫn nhớ như in về những buổi họp dân, họp bản tổng hợp ý kiến trước kỳ tiếp xúc cử tri tại địa phương. Những cuộc họp mà nói như ông là đến tận canh khuya. Khi biết được đề đạt nguyện vọng, bà con người Mông váy áo kéo đến nhà văn hóa bản rôm rả lắm. Dù trước đó, mọi ý kiến đã được tập hợp gửi gắm vào các đảng viên chi bộ. Trong ánh đèn dầu leo lét, tiếng côn trùng rỉ rả bên ngoài, bà con ai cũng có điều để nói, để tranh luận. Người cho rằng phải kiến nghị làm đường giao thông trước; có người lại đề đạt đến sinh kế, cái ăn cái mặc. Ông Thao Văn Mai thì thể hiện rõ lập trường: “Tất cả mong mỏi của bà con đều rất cần thiết. Nhưng bức thiết nhất theo số đông thì vẫn là có con đường. Có đường, bà con đi lại thuận tiện, con em đi học đỡ vất vả; củ sắn, bắp ngô... có đem ra trung tâm xã bán cũng dễ dàng hơn".
Nếu ở Ché Lầu, tiếng nói của bà con dồn vào ước mong có con đường mới, thì ở bản Mùa Xuân, câu chuyện lại rẽ sang nỗi lo về cái ăn, cái mặc, việc học hành của con em. Bản Mùa Xuân nằm cheo leo bên triền núi, đất canh tác ít ỏi, ruộng nương bạc thếch, sinh kế của người dân bấp bênh theo mùa ngô, mùa sắn. Trong căn nhà công vụ của giáo viên tiểu học, ông Sùng Văn Cấu, trưởng bản Mùa Xuân khi đó và bây giờ vẫn đảm đương chức trách, không giấu được niềm trăn trở: “Bản có cả thảy 87 hộ, chủ yếu là người Mông, sống tự cung tự cấp là chính. Ở đây không có chợ búa, không điện, không đường, thoảng mới có người dưới xuôi mang hàng hóa, thực phẩm lên bán cho bà con. Vì vậy, khi được đề đạt ý kiến để tổng hợp gửi đại biểu là người có uy tín của bản tham gia ý kiến trước kỳ tiếp xúc cử tri, bà con trân trọng lắm”. Dù trước đó, bản Mùa Xuân đã triển khai nhiều buổi họp dân, họp chi bộ, những buổi họp không chỉ bàn chuyện kiến nghị về đầu tư đường sá, mà cả vấn đề sinh kế, chuyện làm sao cho con em không phải bỏ học giữa chừng, đều được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Thay vì cùng ý kiến như bản Ché Lầu, khi ấy trưởng bản Cấu nói: “Để tránh đề xuất trùng với bản khác, theo tôi kiến nghị về vấn đề sinh kế; đầu tư trường lớp cho con em, bà con ta nên tập trung ưu tiên”. Ý kiến của trưởng bản Cấu được đại đa số bà con đồng tình, ủng hộ. Thầy giáo Hà Văn Xiệm (thầy giáo cắm bản ở điểm Trường Tiểu học Mùa Xuân) vỗ tay tán dương ý kiến của trưởng bản. Theo thầy Xiệm: “Nếu được đầu tư về phòng lớp học thì con em mùa mưa không lo mái nhà thấm dột; không phải ngồi tụm túm 4 đến 5 em một bàn. Mùa đông có ánh sáng từ điện mặt trời... Có học cái chữ, cái đầu mới sáng, mới biết đi ra làm ăn, đem kinh tế về nhà để thoát nghèo”.
Tôi nhớ trong câu chuyện với ông Cấu vài năm sau chuyến ngược bản hôm đó, ông nói những nội dung đề đạt của bà con bản Mông sau đó đã được các đại biểu nêu lên trong kỳ tiếp xúc cử tri. Trong nhiều ý kiến, nguyện vọng của bà con các bản Ché Lầu, Mùa Xuân, Xía Nọi được đại biểu HĐND tỉnh ghi nhận, đánh giá cao, sẽ tổng hợp báo cáo trong kỳ họp HĐND tỉnh tiếp theo. Dẫu vậy, ông Cấu nói, không phải cứ kiến nghị thì sẽ được đầu tư ngay, bởi tỉnh cũng phải cân đối ngân sách, bố trí nguồn lực theo lộ trình. Những mong mỏi của bà con, vì thế lại tiếp tục được gửi gắm trong những kỳ tiếp xúc cử tri sau. Cũng chính bởi sự kiên trì như những giọt nước bền bỉ ấy, sự bức thiết cuối cùng cũng đem về kết quả. Tuyến đường từ bản Son lên bản Ché Lầu được khởi công từ nguồn vốn 30a, hoàn thành và đưa vào sử dụng năm 2022. Không dừng lại ở đó, ngày 7/7/2021, HĐND tỉnh Thanh Hóa tiếp tục ban hành Nghị quyết số 36/NQ-HĐND và Nghị quyết số 38/NQ-HĐND về chủ trương đầu tư dự án đường giao thông nội bản Ché Lầu, xã Na Mèo và đường giao thông nội bản Mùa Xuân, xã Sơn Thủy; Nghị quyết số 39/NQ-HĐND về chủ trương đầu tư dự án đường giao thông từ bản Thủy Thành đi bản Khà - bản Mùa Xuân, xã Sơn Thủy...
Đường mới - cuộc sống mới
Ngược Ché Lầu hôm nay, vẫn con đường ấy nhưng không còn sự gập ghềnh, khúc khuỷu của năm nào, tất cả đã được bê tông hóa kiên cố, phẳng lỳ. Thời gian vào bản cũng được rút ngắn lại, chưa đầy 1 giờ đồng hồ. Đón chúng tôi từ đầu ngã ba, một hướng lên Ché Lầu, hướng còn lại đi bản Mùa Xuân, ông Thao Văn Lâu, bí thư chi bộ, kiêm trưởng bản Ché Lầu, nói: “Năm 2018, bản có điện lưới. Năm 2022, con đường từ bản Son lên Ché Lầu được bê tông hóa. Có điện sáng, có đường mới, có sóng điện thoại, tiếng loa phát thanh vang lên giữa đại ngàn núi rừng nơi đây như xua đi sự mịt mù, tăm tối của một vùng biên nghèo khó”. Nói rồi ông chỉ tay về phía con đường, tiếp lời: “Nhờ các tổ chức thiện nguyện, đoàn thanh niên xã, bà con cùng chung tay trồng những gốc đào, gốc mận dọc tuyến đường dẫn vào bản, khuôn viên nhà văn hóa. Trồng đào, trồng mận không chỉ tạo cảnh quan xanh mát mà mục đích sau này còn để bản Ché Lầu trở thành một điểm du lịch cộng đồng với những nét đặc trưng riêng”.
Được Nhà nước quan tâm đầu tư hạ tầng, đời sống kinh tế của bà con cũng từng bước khởi sắc. Giờ đây, bà con không còn lo thiếu đói kỳ giáp hạt. Cả bản có gần 15ha lúa nước, lúa nương; hàng chục hecta khoai mán ruột vàng; 170ha vầu, nứa... cùng các mô hình nuôi lợn nái, mô hình trồng đào, mận đem lại hiệu quả. Nói về sự chuyển biến tư duy, nhận thức làm kinh tế, ông Lâu thẳng thắn nói: “Đảng viên phải làm trước thì bà con người Mông mới làm theo. Toàn chi bộ có hơn 20 đảng viên, ai cũng phải đăng ký làm mẫu. Mà cũng chẳng khó khăn gì, thay vì để đồi đất bỏ không, các đảng viên cải tạo kênh mương dẫn nước, canh tác trồng khoai, áp dụng kỹ thuật... cuối vụ, sản lượng cao, đem lại nguồn thu nhập thì không cần vận động, tự bà con tìm đến học hỏi”. Cũng giống như việc phát triển đảng viên ở chi bộ bản, ban đầu việc vận động bà con, những người có tố chất vào Đảng, bà con thẳng thừng: “Vào Đảng làm gì cán bộ bản? Mình có làm cán bộ đâu, làm nông dân thôi mà”. Ấy thế mà, khi đời sống được nâng lên, người dân thể hiện rõ nguyện vọng vào Đảng để được họp bàn, đấu tranh, đưa ra quan điểm để phát triển bản”.
Trước khi rời bản người Mông, tôi ghé điểm Trường Tiểu học Ché Lầu khi mặt trời dần khuất phía dãy núi xa. Thầy Hơ Văn Pó và thầy Thao Văn Dính vui ra mặt khi trường có khách xuôi ghé thăm. Trong tâm thức các thầy, không giấu được niềm hạnh phúc khi được trực tiếp “gieo chữ” cho con em địa phương nơi mình sinh ra, điều mà chính các thầy đã mơ ước từ nhỏ. Thầy Pó tin, nhờ con chữ, nhiều thế hệ con em bản Mông ở Ché Lầu nói riêng, tương lai sẽ được đi ra tiếp cận với những cơ hội việc làm mới. Nhìn vào đôi mắt thầy Pó vừa nói, vừa hướng về học sinh đang nô đùa, tôi thấy rõ niềm vui, sự kỳ vọng. “Lâu Văn Lênh sau này cháu ước mơ làm gì"? – tôi hỏi một học sinh trong đám đông. Lênh cười dõng dạc: “Dạ! Cháu sẽ học giỏi để làm giáo viên giống thầy Pó”. Còn với trưởng bản Mùa Xuân Thao Văn Lâu: “Trước đây Mùa Xuân là bản “5 không”. Không điện, không đường, không trường, không trạm, không sóng điện thoại. Mỗi khi có việc xuống trung tâm xã, dân bản phải đi bộ men theo sườn núi, mất cả ngày trời. Hôm nào gặp trời mưa, phải đi xuyên đêm mới về được tới nhà. Còn bây giờ, Mùa Xuân đã có đường xe máy, ô tô chạy lên vèo vèo. Cũng chẳng còn mong gì hơn”.
Ông Ngân Văn Hòa, Giám đốc Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng khu vực Quan Sơn, nhấn mạnh: "Chính từ những buổi họp bản, sinh hoạt chi bộ, những tiếng nói của cử tri cơ sở đã được lắng nghe, tập hợp và đề xuất tại các kỳ tiếp xúc cử tri, đóng vai trò then chốt để đưa vào nghị quyết HĐND tỉnh, từ đó có chủ trương đầu tư theo lộ trình phù hợp. Khi dự án triển khai, những tồn tại, hạn chế lại tiếp tục được người dân kiến nghị. Việc triển khai dự án từ chính sự mong mỏi, nhu cầu bức thiết của người dân cũng góp phần giúp cho công tác giải phóng mặt bằng được thuận lợi".
Đi qua các bản người Mông ở Ché Lầu, Xía Nọi, Mùa Xuân, sau lưng tôi là sự đổi thay đang hiện diện từng ngày. Nói như ông Ngân Văn Hòa, sự đổi thay ấy không chỉ hiện diện trên những con đường bê tông hay ánh sáng điện lưới, mà rõ hơn cả trong tư duy, nếp nghĩ, cách làm của bà con. Không còn bữa cơm chỉ toàn củ mài, củ sắn; không còn trẻ em thất học hay những tiếng thở dài bên ngọn đèn dầu leo lét. Thay vào đó, 100% trẻ em được đến trường, người dân biết lắng nghe cán bộ, tin theo chủ trương của Đảng, cùng nhau dựng xây bản làng văn minh, đoàn kết.
Đình Giang
Bài 2: Ổn canh, an cư, yên biên giới