Tiếp cận mới trong quan trắc ô nhiễm hữu cơ tại Hà Nội

Một cụm công trình nghiên cứu do Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ quốc gia (NAFOSTED) tài trợ đã bước đầu phác họa bức tranh chi tiết về sự hiện diện của các hóa chất nhóm phthalate và siloxane trong môi trường không khí và nước tại Hà Nội.

Chỉ số AQI đo được tại Quảng Khánh, Quảng An (Tây Hồ, Hà Nội) lên tới mức 557 - mức nguy hiểm cho sức khỏe con người. (Ảnh: nhandan.vn)

Chỉ số AQI đo được tại Quảng Khánh, Quảng An (Tây Hồ, Hà Nội) lên tới mức 557 - mức nguy hiểm cho sức khỏe con người. (Ảnh: nhandan.vn)

Với cách tiếp cận liên ngành, hiện đại, nhóm nghiên cứu không chỉ xây dựng được các phương pháp phân tích chính xác mà còn cung cấp bộ dữ liệu nền có độ tin cậy cao, mở ra hướng đánh giá rủi ro và hoàn thiện chính sách bảo vệ môi trường trong bối cảnh đô thị hóa nhanh.

Phát triển phương pháp phân tích hiện đại, chuẩn hóa dữ liệu nền

Phthalates (ester của acid phthalic) và siloxanes (silic hữu cơ có chứa nhóm methyl) là 2 nhóm hóa chất được sử dụng rộng rãi trong sản phẩm nhựa, vật dụng gia đình, đồ chơi, mỹ phẩm và dược phẩm.

 Biểu đồ phân tích thành phần chính của phthalic acid ester (phthalate và siloxane) trong không khí tại Hà Nội (Nguồn: Science of the Total Environment, 760, 143380).

Biểu đồ phân tích thành phần chính của phthalic acid ester (phthalate và siloxane) trong không khí tại Hà Nội (Nguồn: Science of the Total Environment, 760, 143380).

Ba công trình thuộc cụm đề tài đã ứng dụng loạt thiết bị và kỹ thuật phân tích tiên tiến nhất hiện nay để định lượng chính xác các hợp chất phthalate và siloxane trong môi trường không khí và nước. Phương pháp đạt giới hạn định lượng thấp, độ nhạy và độ ổn định cao, độ thu hồi và tái lặp tốt, đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn của Hiệp hội các nhà hóa học phân tích chính thống (AOAC). Các quy trình sau chuẩn hóa có thể dễ dàng mở rộng và tự động hóa trong các phòng thí nghiệm hóa học-môi trường.

Không chỉ xây dựng phương pháp, nhóm nghiên cứu còn thu thập bộ dữ liệu mới với độ tin cậy cao, làm rõ sự phân bố, mức độ ô nhiễm và nguồn phát thải của phthalate và siloxane theo từng vi môi trường đô thị. Đây là bộ dữ liệu nền tảng lần đầu tiên ghi nhận tại Việt Nam, có ý nghĩa quan trọng trong đánh giá hóa chất gây rối loạn nội tiết.

Ngoài ra, các hằng số phân bố (Kp) và hệ số phân tán octanol-nước (Kow) được tính toán từ số liệu đo đạc thực nghiệm, giúp dự đoán cách các chất này phân chia giữa pha hơi-lỏng và ước lượng đường lưu chuyển trong môi trường không khí và nước.

Cụm công trình đề xuất phương pháp ước lượng rủi ro phơi nhiễm các hóa chất phthalate và siloxane qua đường hô hấp và nước uống theo từng nhóm tuổi. Phương pháp này có thể kết hợp với đánh giá phơi nhiễm qua các con đường khác như hấp thụ qua da, tiếp xúc với bụi hoặc sử dụng sản phẩm chăm sóc cá nhân, ăn uống… nhằm xây dựng mô hình rủi ro tổng thể đối với sức khỏe con người.

 Chất lượng không khí đáng báo động tại Hà Nội đầu năm 2025. (Ảnh: SƠN BÁCH)

Chất lượng không khí đáng báo động tại Hà Nội đầu năm 2025. (Ảnh: SƠN BÁCH)

Gợi mở hướng ứng dụng và chính sách bảo vệ môi trường trong tương lai

Ba công trình đều là các nghiên cứu cơ bản nhưng có định hướng ứng dụng thực tiễn rõ rệt.

Các phương pháp phân tích được phát triển trong cụm đề tài “Nghiên cứu phát triển phương pháp phân tích, quan trắc và đánh giá rủi ro do các chất nhóm phthalate và siloxane tích lũy trong môi trường không khí và nước tại khu vực Hà Nội” giúp các nhà khoa học và phòng thí nghiệm trong lĩnh vực hóa học, môi trường-Trái đất và khoa học sự sống dễ dàng áp dụng. Việc tối ưu hóa quy trình giúp tiết kiệm thời gian, chi phí và nâng cao độ tin cậy của các phép đo.

Đồng thời, kết quả nghiên cứu tạo nền tảng khoa học quan trọng để phát triển các vật liệu và thiết bị thu xử lý mẫu tiên tiến, có khả năng tự động hóa. Các ứng dụng này hướng tới mục tiêu làm sạch môi trường không khí, đặc biệt là không khí trong nhà, cũng như cải thiện chất lượng nguồn nước.

 Mức độ ô nhiễm của phthalic acid ester (phthalate) trong các loại mẫu nước khác nhau (Nguồn: Science of the Total Environment, 788, 147831).

Mức độ ô nhiễm của phthalic acid ester (phthalate) trong các loại mẫu nước khác nhau (Nguồn: Science of the Total Environment, 788, 147831).

Các phát hiện mới cung cấp thêm cơ sở khoa học cho cơ quan quản lý trong hoạch định chính sách, xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn nhằm bảo vệ môi trường xanh, sạch, an toàn. Khi hệ thống quy định được chuẩn hóa và tiệm cận quốc tế, Việt Nam có thể đóng góp tích cực vào nỗ lực chung của toàn cầu trong bảo vệ môi trường, nguồn nước sạch và không khí trong lành.

Bên cạnh đó, các công trình cũng đóng vai trò nâng cao nhận thức cộng đồng thông qua việc cung cấp dữ liệu khoa học đáng tin cậy về mức độ ô nhiễm, rủi ro phơi nhiễm và rủi ro sinh thái do phthalate và siloxane gây ra. Những thông tin này giúp người dân hiểu rõ hơn để lựa chọn, sử dụng các sản phẩm chứa các hóa chất này một cách thận trọng, giảm thiểu rủi ro sức khỏe và tác động từ ô nhiễm môi trường.

Cụm công trình là nghiên cứu cơ bản mang tính đột phá, tạo ra những phát hiện mới có giá trị và mở ra hướng tiếp cận tiên tiến cho lĩnh vực phân tích, độc học môi trường tại Việt Nam. Việc hoàn thiện hệ thống phân tích, quan trắc và đánh giá rủi ro cho các nhóm hóa chất gây rối loạn nội tiết không chỉ đóng góp vào khoa học mà còn hỗ trợ trực tiếp công tác hoạch định chính sách bảo vệ môi trường.

HIỆP ĐỨC

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/tiep-can-moi-trong-quan-trac-o-nhiem-huu-co-tai-ha-noi-post925446.html