Tiếp tục miễn thuế đất nông nghiệp không làm giảm thu ngân sách
Việc tiếp tục miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đến hết năm 2025 sẽ không làm giảm thu ngân sách Nhà nước, do đây là chính sách đã được thực hiện từ năm 2001.
Chính sách miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất trong sản xuất nông nghiệp. Ảnh minh họa
Chính phủ vừa có tờ trình gửi Quốc hội dự thảo Nghị quyết về miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong thời hạn 5 năm từ 2021-2025.
Theo Bộ trưởng Tài chính Đinh Tiến Dũng, chính sách miễn, giảm thuế là giải pháp có tác động lớn, quan trọng, góp phần thực hiện chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông thôn trong từng thời kỳ; góp phần hỗ trợ trực tiếp người nông dân, khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư vào lĩnh vực này.
Đánh giá tác động về tác động của dự thảo Nghị quyết, ông Đinh Tiến Dũng cho rằng, nếu được thông qua, chính sách miễn giảm này sẽ không làm giảm thu ngân sách nhà nước do đây là chính sách đang được thực hiện trên thực tế.
Theo số liệu của Bộ Tài chính, tổng số thuế sử dụng đất nông nghiệp miễn, giảm giai đoạn 2003-2010 trung bình khoảng 3.268 tỷ đồng/năm; giai đoạn từ 2011-2016 trung bình khoảng 6.308 tỷ đồng/năm; giai đoạn 2017-2018 và dự kiến đến hết năm 2020 khoảng 7.438 tỷ đồng/năm.
Sau 20 năm thực hiện chính sách miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp đã góp phần khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; khuyến khích hình thức kinh tế trang trại, mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sử dụng đất trong sản xuất nông nghiệp.
Số thuế sử dụng đất nông nghiệp được miễn khoảng 7.500 tỷ đồng/năm được kỳ vọng sẽ tiếp tục là hình thức hỗ trợ trực tiếp tới người nông dân, là nguồn đầu tư tài chính quan trọng trực tiếp cho khu vực nông nghiệp, nông thôn để đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm.
Theo ông Phạm Đình Thi, Vụ trưởng Vụ Chính sách thuế (Bộ Tài chính), dự thảo Nghị quyết quy định tiếp tục thực hiện miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đối với đất đang sản xuất nông nghiệp của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, kể cả trường hợp đất được thừa kế, tặng cho, nhận chuyển quyền sử dụng đất, đất mà thành viên nhận giao khoán ổn định của hợp tác xã, nông trường quốc doanh, lâm trường quốc doanh để sản xuất nông nghiệp và đất góp vốn để thành lập hợp tác xã.