Tín dụng cần đóng vai trò cân bằng giữa tăng trưởng và ổn định
Trong bối cảnh đầu tư công mở rộng, nhu cầu vốn lớn và áp lực ổn định vĩ mô gia tăng, chính sách tiền tệ không thể chỉ vận hành theo logic 'nới lỏng để hỗ trợ tăng trưởng', mà phải thực hiện nhiều mục tiêu song song.

GS-TS. Trần Thọ Đạt, nguyên thành viên Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ
Để thực hiện mục tiêu tăng trưởng GDP 2 con số trong giai đoạn tới, đồng thời theo đuổi phát triển bền vững và chuyển đổi xanh, GS-TS. Trần Thọ Đạt, nguyên thành viên Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ cho rằng, trong bối cảnh đầu tư công mở rộng, nhu cầu vốn lớn và áp lực ổn định vĩ mô gia tăng, chính sách tiền tệ không thể chỉ vận hành theo logic “nới lỏng để hỗ trợ tăng trưởng”, mà phải thực hiện nhiều mục tiêu song song.
Thưa ông, giai đoạn tới, bên cạnh nới lỏng tín dụng để hỗ trợ tăng trưởng 2 con số, chính sách tiền tệ còn phải thực hiện các mục tiêu khác?
Chính sách tiền tệ nới lỏng để hỗ trợ tăng trưởng thực hiện từ khi đại dịch Covid-19 kết thúc đã gặt hái được rất nhiều thành công. Trong đó, nổi bật là Việt Nam đã trở thành một trong những nền kinh tế phục hồi nhanh nhất, đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất trên thế giới và trong khu vực.
Năm 2026, theo Nghị quyết 244/2025/QH15 về Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội năm 2026 và thực hiện tham vọng tăng trưởng 2 con số trong giai đoạn 2026-2030 như Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội lần thứ XIV của Đảng, thì bên cạnh tiếp tục thực hiện đẩy mạnh đầu tư công, chính sách nới lỏng tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng, còn phải thực hiện nhiều mục tiêu song song để theo đuổi phát triển bền vững và chuyển đổi xanh.
Trước mắt, năm 2026 - năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIV của Đảng, bước vào kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc, cần ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng trên cơ sở giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn.
Năm 2026 cũng là năm cần tập trung xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, tháo gỡ kịp thời, dứt điểm các điểm nghẽn, nút thắt, khơi thông và giải phóng mọi nguồn lực; đổi mới mô hình phát triển với trọng tâm là xác lập mô hình tăng trưởng mới, lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính; nâng cao năng suất, chất lượng, khả năng chống chịu và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Những năm tiếp theo thì sao, thưa ông?
Trong 2 năm đầu triển khai Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2026-2030, nhiệm vụ trọng tâm của chính sách tiền tệ là duy trì ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát quanh mức 4%, điều hành thanh khoản, tỷ giá linh hoạt và hỗ trợ tăng trưởng có chọn lọc. Công cụ thị trường mở, tái cấp vốn mục tiêu và điều hành lãi suất 2 chiều được xem là các biện pháp quan trọng để đáp ứng nhu cầu vốn mà không gây ra bong bóng tài sản hay áp lực tỷ giá.
Trong 2 năm tiếp theo, chính sách tiền tệ cần chuyển trọng tâm sang tái cơ cấu tín dụng theo hướng nâng cao chất lượng tăng trưởng. Điều này bao gồm định hướng dòng vốn vào sản xuất, đổi mới sáng tạo, năng lượng tái tạo và công nghệ sạch, đồng thời hạn chế tín dụng đối với lĩnh vực rủi ro cao. “Chính sách tiền tệ xanh” bắt đầu hình thành thông qua tái cấp vốn xanh, phân loại tài sản theo tiêu chí phát thải và áp dụng hệ số rủi ro môi trường cần phải tập trung triển khai, thay vì dòng vốn tín dụng tập trung vào khu vực dịch vụ, bất động sản và những lĩnh vực có nhiều rủi ro khác.
Trong 2 năm cuối nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI (2029-2030), chính sách tiền tệ cần tích hợp mục tiêu phát triển bền vững vào cấu trúc điều hành, trở thành một trụ cột trong thực hiện cam kết Net Zero vào năm 2050. Điều này đòi hỏi hoàn thiện khung pháp lý, tăng cường giám sát rủi ro, mở rộng huy động vốn xanh và thúc đẩy bao trùm tài chính.
Nhìn chung, giai đoạn 2025-2030, chính sách tiền tệ phải vừa đảm bảo ổn định ngắn hạn, vừa dẫn dắt cơ cấu vốn trung hạn và hướng tới phát triển xanh dài hạn, trở thành nền tảng cho một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, bền vững. Tôi cho rằng, trong 5 năm tới, chính sách tiền tệ không thể chỉ vận hành theo phương thức “nới lỏng - hỗ trợ tăng trưởng” đơn thuần, mà cần đóng vai trò trung tâm trong cân bằng giữa tăng trưởng và ổn định, đồng thời định hướng dòng vốn theo các mục tiêu phát triển bền vững.
Để đạt được tốc độ tăng trưởng GDP trên 8,0% trong năm nay, mục tiêu tăng dư nợ tín dụng là khoảng 16%, dự báo sẽ đạt 18-20%. Trong giai đoạn tới, việc bơm vốn ra cần được tính toán ở mức nào để vừa hỗ trợ tăng trưởng, vừa tránh áp lực lạm phát và rủi ro bất ổn vĩ mô?
Bất cứ nền kinh tế nào đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao, thì chính sách tiền tệ đều phải đối mặt với các áp lực đặc thù, đặc biệt là lạm phát. Khi tăng trưởng cao, nhu cầu vốn đầu tư, mở rộng sản xuất, xây dựng hạ tầng... rất lớn. Nếu chính sách tiền tệ quá “nới lỏng”, sẽ khuyến khích vay ồ ạt, có thể vượt khả năng hấp thụ vốn đầu tư, tiềm ẩn dư thừa vốn, đầu tư kém hiệu quả, nợ xấu gia tăng, bong bóng tài sản.
Việc mở rộng cung tiền dễ dẫn đến áp lực lạm phát, đặc biệt nếu có cú sốc chi phí đầu vào (giá nguyên vật liệu, năng lượng, lương, giá nhập khẩu) hoặc bất ổn từ bên ngoài. Để không bước vào vết xe đổ, trong giai đoạn tăng trưởng cao, chính sách tiền tệ cần vận hành theo phương thức “nới lỏng có chọn lọc, thận trọng”.
Muốn tăng trưởng GDP cao, buộc phải gia tăng đầu tư công. Trong bối cảnh đầu tư công lớn, vai trò của chính sách tiền tệ không thể tách rời chính sách tài khóa. Nếu tài khóa mở rộng mạnh mà tiền tệ đóng vai trò “kìm hãm”, có thể gây xung đột, đầu tư công bị “chèn lấn” vốn tín dụng, hoặc chi phí vốn cao. Ngược lại, nếu tiền tệ hỗ trợ quá nhiều, dễ tạo ra áp lực lạm phát và mất ổn định.
Thấy rõ nguy cơ tiềm ẩn nếu tài khóa và tiền tệ “lệch pha”, Thủ tướng Chính phủ thường xuyên nhấn mạnh sự cần thiết phải điều hành hài hòa, phối hợp chặt chẽ chính sách tài khóa và tiền tệ để vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo động lực cho doanh nghiệp phát triển, đồng thời nâng cao hiệu quả đầu tư công, góp phần đạt mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Tín dụng tăng trưởng nhanh, nhưng nhiều chuyên gia cho rằng, vốn ngân hàng đang quá tập trung vào lĩnh vực dịch vụ, bất động sản, cần phải nắn lại “huyết mạch” của nền kinh tế?
Nền kinh tế Việt Nam dựa nhiều vào vốn vay ngân hàng với mức dư nợ tương đương 125 - 130% GDP, cao hơn mức trung bình của ASEAN (khoảng 100%). Điều này khiến kênh tín dụng trở thành “huyết mạch” của nền kinh tế, khác với các nền kinh tế phát triển, nơi thị trường vốn mới là kênh cung cấp vốn chủ yếu của nền kinh tế. Với một nền kinh tế đang trong giai đoạn đầu phát triển, thị trường trái phiếu, chứng khoán... chưa phát triển tương xứng, thì việc dựa nhiều vào ngân hàng cũng là bình thường.
Tuy nhiên, cơ cấu tín dụng tại Việt Nam thay vì tập trung vào sản xuất, lại đang tập trung mạnh vào bất động sản, xây dựng và thương mại, dịch vụ; trong khi các ngành đổi mới sáng tạo, năng lượng tái tạo và nông nghiệp xanh mới chỉ chiếm khoảng 5 - 7% tổng dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế. Sự mất cân đối này khiến chính sách tiền tệ nới lỏng phần lớn tín dụng chảy vào các lĩnh vực đầu cơ ngắn hạn, thay vì đổi mới, xanh hóa sản xuất.
Trước sự mất cân đối này, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các tổ chức tín dụng tập trung tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng kinh tế, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, ứng phó với biến đổi khí hậu, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo… Thủ tướng cũng yêu cầu, kiểm soát chặt chẽ tín dụng với lĩnh vực rủi ro, đảm bảo hoạt động tín dụng an toàn, hiệu quả.











