'Tính Đảng' trong âm nhạc và hội họa

Trong hành trình dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam không chỉ lưu lại những chiến công hiển hách mà còn để lại một kho tàng văn hóa - nghệ thuật đồ sộ, phản ánh tâm hồn, khát vọng và lý tưởng của nhân dân. Nếu chính trị là 'ngọn đuốc soi đường cho văn nghệ', thì văn nghệ lại chính là tiếng nói của tâm hồn quần chúng, góp phần làm cho lý tưởng cách mạng trở nên gần gũi, ấm áp và bền chặt trong trái tim con người.

Ở Việt Nam, “tính Đảng” trong tác phẩm nghệ thuật không đơn thuần là một khái niệm lý luận, mà là sự hòa quyện giữa lý tưởng cách mạng với cảm xúc sáng tạo, tạo nên những giá trị thẩm mỹ trường tồn. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Văn hóa, nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Người nghệ sĩ giỏi về chuyên môn chưa đủ; quan trọng hơn, họ phải có trách nhiệm với nhân dân, với xã hội, và rộng hơn là với sự tiến bộ của cả nhân loại.

Âm nhạc - tiếng nói của lý tưởng và niềm tin

Trong âm nhạc Việt Nam hiện đại, “tính Đảng” hiện diện rõ nét trong nhiều ca khúc đi cùng năm tháng. Đó là tiếng gọi của lý tưởng, là niềm tin son sắt vào sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời là nhịp đập con tim của hàng triệu con người trong những thời khắc lịch sử. Chúng ta có cả một kho tàng ca khúc cách mạng, vừa khẳng định lý tưởng vừa lay động tình cảm nhân dân.

Nhạc sĩ Văn Cao.

Nhạc sĩ Văn Cao.

Có thể kể đến “Tiến quân ca” của Văn Cao - sau trở thành Quốc ca; “Ca ngợi Hồ Chủ tịch” của Văn Cao; “Đảng đã cho ta một mùa xuân” của Phạm Tuyên; “Vầng trăng Ba Đình” của Thuận Yến; “Đảng là cuộc sống của tôi” của Nguyễn Đức Toàn… Những tác phẩm này không chỉ được hát trong các hội trường, lễ kỷ niệm, mà còn vang vọng trong tâm khảm mỗi người dân Việt, trở thành ký ức tập thể và biểu tượng âm nhạc của thời đại.

Đặc biệt, ca khúc “Chào mừng Đảng Cộng sản Việt Nam”(1951) của nhạc sĩ Đỗ Minh viết trong bối cảnh kháng chiến gian lao, ca từ mộc mạc nhưng hào sảng, giai điệu khoan thai mà rực sáng niềm tin. Ngay từ đoạn mở đầu tác giả đã vẽ một bức tranh gam màu rực sáng:

Vừng trời đông, ánh hồng tươi sáng bừng lên.
Đàn bồ câu trắng bay về trong nắng mới.
Ngàn triệu dân siết tay nhau, đứng quanh Đảng Cộng sản Việt Nam
Khối kết đoàn công nông bền vững…

Bài hát vang lên như lời khẳng định: Đảng chính là bình minh rực rỡ của dân tộc. Điều đặc biệt là nhạc sĩ không dụng công tô vẽ, mà để cảm xúc bật lên tự nhiên, tuôn chảy thành ca từ giản dị mà chân thành. Chính sự giản dị ấy lại làm nên sức sống lâu bền, khiến tác phẩm vượt lên thời gian, trở thành một phần ký ức của nhiều thế hệ.

Trước đó, Văn Cao với “Tiến quân ca” (1944) đã chứng minh sức mạnh kỳ diệu của âm nhạc. Chỉ bằng một số nốt nhạc khỏe khoắn, lời ca giản dị nhưng hào sảng, ông đã viết nên bản hùng ca bất tử. Thiết nghĩ, ban đầu, Văn Cao không nghĩ đến việc sáng tác Quốc ca, nhưng chính niềm tin vào con đường cách mạng - đã khiến tác phẩm trở thành biểu tượng thiêng liêng của dân tộc.

Nhạc sĩ An Hiếu - con trai nhạc sĩ An Thuyên - cho rằng ca khúc đã trở thành biểu tượng cho sức sống của dân tộc và cốt cách con người Việt Nam. "Lời ca mộc mạc nhưng sâu sắc, khẳng định tinh thần yêu nước. Giai điệu dễ nhớ, dễ thuộc và gần gũi với quần chúng. Cấu trúc bài hát chặt chẽ. Tôi luôn có nhiều cảm xúc khi nghe bài hát này". Điểm chung của những ca khúc ấy là sự thăng hoa tự nhiên của cảm xúc cách mạng. “Tính Đảng” không hề gò ép, khô cứng, mà trở thành linh hồn tác phẩm, nuôi dưỡng tình cảm công dân, thắp lên ngọn lửa niềm tin cho nhiều thế hệ mai sau.

Hội họa - hình tượng thẩm mỹ của lý tưởng cộng sản

Nếu âm nhạc là tiếng lòng vang ngân, thì hội họa chính là hình ảnh hữu hình, là diện mạo trực quan của lý tưởng cách mạng. Trong hội họa Việt Nam thế từ kỷ XX, tính Đảng đã trở thành mạch ngầm xuyên suốt, gắn liền với những tác phẩm tiêu biểu.

Từ thời kỳ kháng chiến, các họa sĩ như Tô Ngọc Vân, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Sáng, Huỳnh Văn Gấm… đã khắc họa hình tượng người chiến sĩ, Bác Hồ, nhân dân và quê hương trong lửa đạn, với một vẻ đẹp vừa hiện thực, vừa lý tưởng. “Bác Hồ làm việc ở Bắc Bộ phủ” (Tranh khắc gỗ của họa sĩ Tô Ngọc Vân) hay nhiều ký họa chiến trường khác của các họa sĩ (Tô Ngọc Vân, Huỳnh Phương Đông, Cổ Tấn Long Châu, Thái Hà, Lê Lam, Lê Duy Ứng…) đều mang hơi thở thời đại, đồng thời trở thành biểu tượng nghệ thuật.

 Tác phẩm “Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ” của Nguyễn Sáng.

Tác phẩm “Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ” của Nguyễn Sáng.

Nổi bật nhất là bức sơn mài “Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ” (1963) của Nguyễn Sáng. Tác phẩm ra đời sau gần 9 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, nhưng phải nhiều năm sau mới được công bố rộng rãi. Bằng ngôn ngữ sơn mài truyền thống, Nguyễn Sáng khắc họa khoảnh khắc thiêng liêng: giữa chiến trường khói lửa, người chiến sĩ giơ tay tuyên thệ đứng vào hàng ngũ của Đảng. Những gam màu nâu đỏ, vàng son không chỉ tái hiện hiện thực, mà còn nâng tầm thành biểu tượng lý tưởng cộng sản. Tác phẩm được coi là kiệt tác hội họa hiện đại Việt Nam.

Theo họa sĩ Lương Xuân Đoàn (Chủ tịch Hội Mỹ thuật Việt Nam): “...Từ việc gạn lọc ra những chi tiết đắt giá, họa sĩ Nguyễn Sáng đã nâng tầm khái quát cho tác phẩm để làm nổi bật lòng yêu nước, niềm tin vào Đảng và tinh thần đoàn kết, quyết tâm chiến đấu của những người chiến sĩ Điện Biên. Tác phẩm thành công không chỉ vì thể hiện một đề tài lớn, đề tài chiến tranh cách mạng, đề tài Đảng, Bác Hồ mà bởi chính giá trị nghệ thuật tự thân của nó”.

Còn họa sĩ Lê Thiết Cương nhận xét: “Trên đất nước ta, đã có hàng triệu buổi kết nạp Đảng, nhưng “nhìn” ra vẻ đẹp của nghi lễ trang trọng này, trong hội họa chỉ có một Nguyễn Sáng với buổi “Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ” mà thôi”.

Với giá trị về mặt lịch sử, văn hóa, thẩm mỹ, bức tranh “Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ” được công nhận là bảo vật quốc gia theo Quyết định số 2599/QĐ-TTg (ngày 30/12/2013) của Thủ tướng Chính phủ.

Hai thập kỷ sau, họa sĩ Lê Quốc Lộc sáng tác “Từ trong bóng tối” (1980). Ánh sáng từ ngọn đèn hắt qua khung cửa sổ đã soi tỏ lá cờ đỏ sao vàng và hình ảnh chiến sĩ tuyên thệ. Ánh sáng ấy không chỉ là chi tiết thị giác, mà còn là ẩn dụ triết lý: chính Đảng là nguồn sáng dẫn lối dân tộc thoát khỏi bóng tối nô lệ, đi tới độc lập và tự do.

Có thể nói, từ Nguyễn Sáng đến Lê Quốc Lộc, mỗi tác phẩm tuy mang ngôn ngữ riêng, nhưng cùng chung một mạch nguồn: khẳng định vai trò lịch sử tất yếu của Đảng và niềm tin sắt son vào lý tưởng cộng sản.

“Tính Đảng” - sợi chỉ đỏ xuyên suốt sáng tạo nghệ thuật

Nhìn từ âm nhạc đến hội họa, ta thấy rõ: tính Đảng không phải một “mệnh lệnh hành chính” áp đặt lên nghệ thuật, mà là mạch nguồn cảm xúc tự nhiên trong trái tim nghệ sĩ. Chính nó làm cho giai điệu trở nên bất tử, khiến bức tranh vượt khỏi khuôn khổ mỹ thuật để trở thành biểu tượng tinh thần.

Đặc điểm của văn học nghệ thuật cách mạng Việt Nam là vừa giàu tính thẩm mỹ, vừa đậm tính chính trị, nhưng không hề khô cứng, giáo điều. Ngược lại, chính tính Đảng giúp nghệ thuật gắn bó mật thiết với đời sống, trở thành tiếng nói của nhân dân, của thời đại. Ngày nay, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, những tác phẩm ấy vẫn nguyên giá trị. Chúng nhắc nhở rằng: tài năng và kỹ thuật chưa đủ, mà điều cốt lõi là trách nhiệm xã hội. Nghệ sĩ không chỉ sáng tác để thỏa mãn bản thân, mà còn để góp phần xây dựng đời sống tinh thần của nhân dân, để cái đẹp song hành cùng cái thiện và cái đúng.

Lời kết

“Tính Đảng” trong âm nhạc và hội họa Việt Nam là minh chứng sinh động cho mối quan hệ gắn bó giữa nghệ thuật và chính trị. Nó không làm nghệ thuật nghèo đi, mà ngược lại, đã nâng nghệ thuật lên tầm cao mới: trở thành sức mạnh tinh thần, thành vũ khí sắc bén và di sản vô giá của dân tộc.

Những ca khúc, bức tranh ra đời trong bão táp cách mạng vẫn sống mãi đến hôm nay. Chúng không chỉ phản ánh hiện thực một giai đoạn, mà còn gửi gắm khát vọng vĩnh hằng: độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

Có thể khẳng định: tính Đảng trong nghệ thuật không chỉ là phạm trù lý luận, mà còn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, dẫn dắt các thế hệ nghệ sĩ sáng tạo nên những tác phẩm sống cùng năm tháng, đồng hành cùng dân tộc trên con đường đi tới tương lai.

Gia Bảy

Nguồn VNCA: https://vnca.cand.com.vn/tu-lieu-van-hoa/tinh-dang-trong-am-nhac-va-hoi-hoa-i781753/