Tỉnh Lạng Sơn và tiềm năng phát triển công nghiệp văn hóa

Khi được tổ chức đồng bộ, có tầm nhìn và gắn kết với chiến lược quốc gia, công nghiệp văn hóa sẽ không chỉ là ngành kinh tế mới của Lạng Sơn mà còn là con đường gìn giữ, tái tạo và lan tỏa bản sắc vùng biên.

Tỉnh Lạng Sơn, vùng đất biên cương giàu di sản và bản sắc đa tộc người, đang từng bước phát huy lợi thế để phát triển công nghiệp văn hóa. Khi văn hóa được coi là nguồn lực sáng tạo, Xứ Lạng có cơ hội trở thành điểm nhấn văn hóa - du lịch của vùng Đông Bắc.

Công nghiệp văn hóa được hiểu là các ngành công nghiệp kết hợp giữa sáng tạo, sản xuất và thương mại hóa các nội dung mang giá trị văn hóa - tinh thần. Những sản phẩm và dịch vụ ấy, dù mang tính phi vật thể, lại có khả năng tạo ra giá trị kinh tế hữu hình, góp phần lan tỏa bản sắc và nâng cao vị thế văn hóa quốc gia. Từ những bộ phim, tác phẩm nghệ thuật, lễ hội, cho tới thiết kế thời trang, âm nhạc hay trò chơi điện tử - tất cả đều nằm trong không gian sáng tạo ấy, nơi văn hóa được chuyển hóa thành năng lượng của phát triển.

Trong bức tranh ấy, tỉnh Lạng Sơn là một "kho báu" chưa khai mở hết tiềm năng. Đây không chỉ là những di sản quý báu mà còn là nguồn nguyên liệu vô tận cho công nghiệp sáng tạo - nơi mỗi câu chuyện dân gian, mỗi điệu sli, tiếng tính câu then, hay mỗi sản phẩm thủ công đều có thể trở thành một "thương hiệu văn hóa" đặc sắc.

Với vị trí địa chính trị đặc biệt là cửa ngõ giao thương giữa Việt Nam và Trung Quốc, Lạng Sơn còn mang trong mình lợi thế hiếm có: vừa là vùng văn hóa giao thoa, vừa là thị trường kết nối quốc tế. Chính điều đó mở ra cơ hội để các giá trị văn hóa bản địa không chỉ được bảo tồn, mà còn được chuyển hóa thành sản phẩm văn hóa sáng tạo, góp phần đưa công nghiệp văn hóa trở thành động lực mới cho tăng trưởng kinh tế bền vững của tỉnh trong giai đoạn hiện nay.

Nguồn lực danh lam thắng cảnh

Những danh lam thắng cảnh nổi tiếng như Động Nhị - Tam Thanh, Thành Nhà Mạc, Ải Chi Lăng, tượng Tô Thị, sông Kỳ Cùng không chỉ mang vẻ đẹp tự nhiên mà còn chất chứa những câu chuyện gắn liền với lịch sử dân tộc. Hệ thống chùa chiền, đền miếu linh thiêng như chùa Thành, đền Mẫu Đồng Đăng, đền Bắc Lệ, đền Kỳ Cùng, đền Tả Phủ, các chợ như Kỳ Lừa, Đông Kinh, cùng các chợ phiên và chợ cửa khẩu vùng biên tạo nên một không gian văn hóa phong phú, nơi du khách có thể vừa khám phá cảnh đẹp, vừa trải nghiệm đời sống giao thương đặc trưng của vùng biên giới.

Công viên địa chất Lạng Sơn được UNESCO công nhận là Công viên địa chất toàn cầu.

Công viên địa chất Lạng Sơn được UNESCO công nhận là Công viên địa chất toàn cầu.

Đặc biệt năm 2024, Công viên địa chất Lạng Sơn được UNESCO công nhận là Công viên địa chất toàn cầu, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc đưa Lạng Sơn lên bản đồ du lịch quốc tế. Thành tựu này không chỉ khẳng định giá trị địa chất, địa mạo và cảnh quan mà còn mở ra hướng phát triển mới cho du lịch địa chất, giáo dục trải nghiệm và sáng tạo nội dung số, biến tài nguyên thiên nhiên thành nguồn cảm hứng sáng tạo bền vững.

Song song với đó, hệ thống du lịch thông minh của tỉnh đã được xây dựng, số hóa 9 điểm du lịch lớn, thu hút hơn 2,7 triệu lượt truy cập. Đây là bước tiến mạnh mẽ trong công cuộc chuyển đổi số ngành du lịch, giúp Lạng Sơn không chỉ quảng bá hình ảnh hiệu quả mà còn tạo nền tảng dữ liệu quan trọng để phát triển công nghiệp văn hóa gắn với công nghệ số.

Các điểm du lịch cộng đồng như Hữu Liên, Quỳnh Sơn đang trở thành “nền tảng sáng tạo bản địa”, nơi hội tụ giữa thiên nhiên - sinh kế - văn hóa. Mô hình du lịch này không chỉ tạo sinh kế bền vững cho người dân mà còn góp phần bảo tồn bản sắc văn hóa, đồng thời mở rộng không gian sáng tạo cho nghệ thuật, thủ công mỹ nghệ và trải nghiệm văn hóa đa tầng của du khách.

Nhìn tổng thể, hệ thống danh lam thắng cảnh của Lạng Sơn không chỉ là “nguồn lực du lịch” mà còn là tài nguyên văn hóa sống - nơi có thể kiến tạo nên những sản phẩm công nghiệp văn hóa mang bản sắc Xứ Lạng, gắn kết giữa quá khứ và hiện đại, giữa giá trị bản địa và sức sáng tạo toàn cầu.

Nguồn lực bản sắc văn hóa

Lạng Sơn là vùng đất đa tộc người, trong đó người Nùng và Tày chiếm đa số, cùng với Dao, Kinh, Hoa, H’Mông, Sán Chay và một số nhóm nhỏ khác, tạo nên một bức tranh văn hóa đa sắc và giàu bản sắc. Đây được xem là một “tiểu vùng văn hóa Xứ Lạng”, nơi lưu giữ và kết tinh những giá trị đặc trưng của văn hóa Việt Bắc nói chung và vùng biên giới Việt - Trung nói riêng. Chính sự giao thoa ấy đã làm nên một nền văn hóa vừa cổ truyền, vừa năng động, kết hợp hài hòa giữa văn hóa bản địa và giao thương quốc tế, giữa nếp sống miền núi và hơi thở đô thị vùng cửa khẩu.

Hệ thống lễ - tết - hội hè ở Lạng Sơn đặc biệt phong phú, phản ánh chiều sâu tín ngưỡng và đời sống tinh thần của cư dân địa phương. Ngoài Tết Nguyên đán, người Nùng và Tày còn có các dịp lễ riêng như Tết Thanh minh, Tết Đoan ngọ, Tết mùng 6/6, Tết 14/7, Tết Trung thu, Tết cơm mới, mỗi lễ tết đều gắn với vòng đời nông nghiệp và sinh hoạt cộng đồng. Đặc biệt, mỗi độ xuân về, toàn tỉnh diễn ra hơn 300 lễ hội mùa xuân ở khắp các làng bản - từ hội đình, hội đền, hội miếu cho đến các lễ hội cầu an, cầu mùa, lễ hội nông nghiệp, tạo nên bầu không khí hội hè rộn ràng, nơi văn hóa và niềm tin dân gian hòa quyện. Nổi bật nhất là Lễ hội Kỳ Cùng - Tả Phủ, diễn ra từ ngày 22 đến 27 tháng Giêng, được xem như “lễ hội lớn nhất Xứ Lạng”, biểu tượng cho tinh thần đoàn kết, tôn vinh người dân làm kinh thương vùng biên.

Bản sắc Xứ Lạng còn được thể hiện đậm nét qua trang phục, ẩm thực và âm nhạc dân gian. Trang phục truyền thống của người Nùng và Tày, với gam chàm trầm, đường thêu mảnh, phản ánh quan niệm về vẻ đẹp giản dị mà tinh tế. Ẩm thực Lạng Sơn nổi tiếng với vịt quay, khâu nhục, bánh ngải, lợn quay lá mắc mật, vừa dân dã, vừa đậm phong vị núi rừng, đang dần được xây dựng thành thương hiệu ẩm thực vùng miền. Bên cạnh đó, dân ca - dân vũ như sli, lượn, then, páo dung vẫn vang lên trong các dịp lễ hội, như mạch nguồn âm thanh nuôi dưỡng tâm hồn cộng đồng, đồng thời là chất liệu sáng tạo quý giá cho các sản phẩm âm nhạc, trình diễn, du lịch văn hóa và công nghiệp sáng tạo sau này.

Hoạt động nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh, điện ảnh của tỉnh cũng ngày càng khởi sắc. Các thiết chế văn hóa hiện đại như Trung tâm Văn hóa - Nghệ thuật tỉnh, Rạp Đông Kinh, cụm rạp CGV Lạng Sơn đang trở thành không gian kết nối giữa nghệ thuật truyền thống và đời sống đương đại, góp phần đưa hình ảnh Xứ Lạng đến gần hơn với công chúng. Nhiều họa sĩ, nhiếp ảnh gia địa phương, tiêu biểu như Hoàng Văn Điểm, đã đạt giải thưởng quốc gia và quốc tế, với các tác phẩm về đất và người Xứ Lạng được triển lãm ở nhiều nước trên thế giới. Những tác phẩm này không chỉ mang giá trị nghệ thuật mà còn có thể thương mại hóa dưới dạng bản quyền sáng tạo, tranh ảnh lưu niệm, ấn phẩm số hóa, trở thành một phần trong chuỗi sản phẩm công nghiệp văn hóa đặc trưng của tỉnh.

Có thể nói, nguồn lực bản sắc văn hóa của Lạng Sơn là kho tư liệu sống - nơi mỗi làn điệu, lễ hội, món ăn hay sản phẩm thủ công đều có thể được chuyển hóa thành sản phẩm sáng tạo. Khi được đầu tư bài bản và kết nối với du lịch, truyền thông, công nghệ số, những giá trị ấy sẽ trở thành “tài sản mềm” thúc đẩy Lạng Sơn phát triển mạnh mẽ trên con đường xây dựng nền công nghiệp văn hóa mang bản sắc vùng biên, đậm đà hồn Xứ Lạng.

Một số định hướng phát triển công nghiệp văn hóa trong thời gian tới

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số ngày càng mạnh mẽ, phát triển công nghiệp văn hóa đang trở thành một hướng đi tất yếu đối với Lạng Sơn - vùng đất giàu bản sắc nhưng vẫn còn nhiều tiềm năng chưa được khai mở. Trong thời gian tới, tỉnh cần xác định rõ các trụ cột chiến lược để vừa phát huy giá trị di sản, vừa tạo động lực cho nền kinh tế sáng tạo. Trước hết, du lịch văn hóa cần được định vị là ngành chủ lực, nơi di sản vật thể và phi vật thể được chuyển hóa thành sản phẩm trải nghiệm có giá trị. Công viên địa chất toàn cầu Lạng Sơn, các di tích quốc gia, lễ hội truyền thống và làng nghề bản địa phải trở thành trung tâm của chuỗi giá trị du lịch - văn hóa - sáng tạo, giúp định hình thương hiệu “Xứ Lạng - điểm đến văn hóa biên cương”.

Song song với đó, tỉnh cần tập trung đầu tư không gian sáng tạo và hạ tầng văn hóa hiện đại. Những thiết chế như Trung tâm Văn hóa - Nghệ thuật, các rạp chiếu phim, nhà trưng bày, khu triển lãm hoặc tuyến phố nghệ thuật cần được nâng cấp, xã hội hóa và trở thành nơi kết nối giữa nghệ sĩ, doanh nghiệp sáng tạo và cộng đồng. Đây sẽ là nền tảng quan trọng để hình thành hệ sinh thái công nghiệp văn hóa tại chỗ - nơi con người Xứ Lạng vừa là chủ thể sáng tạo, vừa là người lan tỏa văn hóa.

Một trụ cột khác không thể thiếu là phát triển nguồn nhân lực văn hóa - sáng tạo. Lạng Sơn cần có chính sách đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu cho nghệ nhân, cán bộ văn hóa, các bạn trẻ có năng khiếu nghệ thuật, marketing hay công nghệ. Cùng với đó, tỉnh nên mở rộng hợp tác với các viện nghiên cứu, trường đại học và tổ chức quốc tế nhằm trao đổi kinh nghiệm, hình thành đội ngũ “doanh nhân văn hóa”, “nhà sáng tạo trẻ” mang tầm khu vực.

Bên cạnh yếu tố con người, chuyển đổi số và phát triển nội dung sáng tạo là xu thế không thể đảo ngược. Việc số hóa di sản, lễ hội, làng nghề và danh thắng không chỉ góp phần bảo tồn mà còn mở ra hướng khai thác mới thông qua các nền tảng trực tuyến, triển lãm ảo, video quảng bá hay du lịch 3D. Nếu được triển khai đồng bộ, Lạng Sơn hoàn toàn có thể hình thành một “nền kinh tế nội dung văn hóa số”, trong đó giá trị truyền thống trở thành chất liệu sáng tạo mới, gắn với công nghệ và thị trường.

Tỉnh cũng cần chú trọng xây dựng và thương mại hóa sản phẩm văn hóa đặc trưng - từ thủ công mỹ nghệ, ẩm thực, thời trang, nhạc cụ dân tộc cho tới đồ lưu niệm lấy cảm hứng từ biểu tượng Xứ Lạng. Mỗi sản phẩm văn hóa cần gắn với một câu chuyện, một biểu trưng của vùng đất, qua đó nâng tầm giá trị thương hiệu địa phương và góp phần xuất khẩu văn hóa ra thế giới.

Trong xu thế hội nhập, liên kết vùng và hợp tác quốc tế là hướng phát triển bền vững. Lạng Sơn cần tích cực kết nối với các tỉnh Việt Bắc và khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây (Trung Quốc) để xây dựng các chương trình giao lưu, tuần văn hóa biên giới, hội chợ sáng tạo và các tour du lịch xuyên biên giới. Sự hợp tác ấy không chỉ thúc đẩy giao thương văn hóa, mà còn tạo không gian sáng tạo liên vùng, góp phần đưa Xứ Lạng hòa vào dòng chảy phát triển của khu vực Đông Nam Á - Đông Á.

Cuối cùng, để những định hướng trên đi vào thực tế, tỉnh cần sớm ban hành Chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa Lạng Sơn giai đoạn 2025-2035, kèm theo các chính sách hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo, ưu đãi thuế và quỹ phát triển văn hóa. Khi được tổ chức đồng bộ, có tầm nhìn và gắn kết với chiến lược quốc gia, công nghiệp văn hóa sẽ không chỉ là ngành kinh tế mới của Lạng Sơn, mà còn là con đường gìn giữ, tái tạo và lan tỏa bản sắc vùng biên trong thời đại toàn cầu hóa - nơi Xứ Lạng không chỉ kể câu chuyện của mình, mà còn kể câu chuyện của một Việt Nam sáng tạo và hội nhập.

TS. Triệu Quang Minh (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Khu vực I) và ThS. Nông Bích Diệp (Phó Giám đốc Sở VHTTDL Lạng Sơn)

Nguồn VietnamNet: https://vietnamnet.vn/tinh-lang-son-va-tiem-nang-phat-trien-cong-nghiep-van-hoa-2453115.html