Tòa kiến nghị truy thu tiền thuế vụ 'bán nhà giá 15 tỉ nhưng hợp đồng chỉ ghi 200 triệu'
Tòa kiến nghị cơ quan thuế xem xét truy thu tiền thuế dựa trên giá thực tế chuyển nhượng là 15 tỉ đồng, nếu nhận thấy có dấu hiệu tội trốn thuế thì chuyển hồ sơ qua CQĐT xử lý theo quy định.
Chiều nay (19-3), TAND tỉnh Bình Dương mở phiên tòa phúc thẩm vụ án tranh chấp giữa nguyên đơn là bà T với bị đơn là vợ chồng bà A (cùng ngụ huyện Dầu Tiếng, Bình Dương) liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu và hủy giấy chứng nhận (GCN) quyền sử dụng đất (QSDĐ).
Tại phiên tòa hôm nay, bà T vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Bà T yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo hướng tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ tại Văn phòng công chứng giữa vợ chồng bà A với bà Tr (người liên quan), hủy GCN đã cấp cho bà Tr...
Tại tòa, vợ chồng bà A tiếp tục vắng mặt. Trước đó, vợ chồng bà A làm đơn xin vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng.
Tại tòa, đại diện bà Tr thừa nhận hai bên chuyển nhượng với giá 15 tỷ nhưng ghi trên hợp đồng 200 triệu để giảm phí công chứng. Lý giải về việc tại sao số tiền thực tế thanh toán hơn 15 tỷ đồng (15,068 tỷ đồng), bà Tr cho rằng đây là tiền mua thêm cây trên đất, phí chuyển khoản qua ngân hàng... Đại diện bà Tr đề nghị tòa tuyên y án sơ thẩm.
Tại phần hỏi, HĐXX cũng hỏi bà Tr về mục đích gì khi ghi trên hợp đồng chỉ 200 triệu? Đại diện bà Tr cho rằng ghi 200 triệu để giảm phí công chứng chứ không có mục đích gì khác. Lúc này, HĐXX cũng giải thích cho phía bà Tr là số tiền ghi trên hợp đồng 200 triệu nhưng thực tế giao dịch hơn 15 tỷ, vấn đề này rất nghiêm trọng chứ không phải đơn giản.
Theo vị thẩm phán, việc ghi giá trên hợp đồng không đúng giá trị chuyển nhượng dẫn đến số tiền nộp thuế không đúng là hành vi trốn thuế, chứ không phải đơn giản là hành vi giảm số tiền phí công chứng. Nếu trong hợp đồng ghi 200 triệu nhưng thực tế chuyển nhượng 15 tỷ, số tiền trốn thuế hơn 300 triệu đồng, tham khảo khoản 2 Điều 200 BLHS hiện hành có thể bị phạt từ 1 năm tù đến 3 năm tù.
HĐXX cũng cho biết trên thực tế đã rất nhiều vụ án đã bị khởi tố và xét xử.
Đại diện bà Tr cho rằng giá ghi vậy nhưng khi nộp thuế tại ủy ban sẽ căn cứ vào giá địa phương, giá đóng thuế bao nhiêu bà Tr khai không nắm được.
Lúc này, HĐXX công bố theo hồ sơ số tiền thuế thu nhập cá nhân đóng chỉ hơn 6 triệu đồng.
Tại phần tranh luận, đại diện của bà T cho rằng giao dịch chuyển nhượng giữa bà Tr và vợ chồng bà A là vi phạm điều cấm của pháp luật. Cụ thể, chuyển nhượng 15 tỷ nhưng chỉ ghi 200 triệu đồng, kê khai giá trên hợp đồng thấp hơn giá thực tế là hành vi không trung thực, làm giảm số thuế phải nộp, gây thất thu cho ngân sách Nhà nước 370 triệu đồng. Đây là hành vi trốn thuế bị nghiêm cấm theo khoản 5 Điều 143 Luật Quản lý thuế 2019....
Cạnh đó, theo bà T, giao dịch chuyển nhượng này không có thật, giả tạo. Theo Quyết định giám đốc thẩm số 03/2020/DS-GĐT ngày 16-01-2020 của TAND Tối cao có phần lập luận tương tự là giá ghi trong hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ được công chứng là giả tạo nhằm che giấu hợp đồng giá cao hơn (để chịu thuế thấp) thì sẽ bị vô hiệu. Trong vụ án này, việc ghi giá trên hợp đồng công chứng 200 triệu nhằm che dấu cho hợp đồng đặt cọc giá 15 tỷ nên phải bị vô hiệu...
Tại tòa, đại diện VKS đề nghị y án sơ thẩm
Sau khi nghị án, HĐXX nhận định việc chuyển nhượng ghi giá thấp để trốn thuế nếu có sẽ được giải quyết theo Luật Xử lý vi phạm hành chính và BLHS nên việc bà T đề nghị tạm đình chỉ vụ án để chuyển cho công an là không có căn cứ.
Theo HĐXX, thời điểm hai bên chuyển nhượng thì tình trạng đất không tranh chấp, không nằm trong quy hoạch...đủ điều kiện chuyển nhượng. Việc hai bên chuyển nhượng là tự nguyện, không vi phạm điều cấm hay đạo đức xã hội nên phát sinh hiệu lực. Lúc hai bên thỏa thuận chuyển nhượng chưa có quyết định hay bản án buộc bà A trả nợ cho bà T cũng như một số người liên quan nên việc cho rằng bà A tẩu tán tài sản là không có căn cứ.
Vì vậy, HĐXX phúc thẩm cho rằng bản án sơ thẩm tuyên như vậy là có căn cứ. Tuy nhiên, về phần giá trị của hợp đồng ghi 200 triệu là không phù hợp nên HĐXX chấp nhận một phần kháng cáo của bà T vô hiệu đối với phần này.
Từ đó, HĐXX phúc thẩm quyết định sửa một phần bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà T, tuyên điểm 1 Điều 2 của hợp đồng chuyển nhượng (ghi giá 200 triệu) vô hiệu. Chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Tr, công nhận hợp đồng chuyển nhượng ở các điều còn lại, giữ nguyên GCN đã cấp cho bà Tr.
Cạnh đó, HĐXX phúc thẩm kiến nghị cơ quan thuế xem xét truy thu tiền thuế dựa trên giá thực tế chuyển nhượng là 15 tỷ đồng, nếu nhận thấy có dấu hiệu tội trốn thuế thì chuyển hồ sơ qua CQĐT xử lý theo quy định.
Chậm chân nên "nắm kẻ trọc đầu"
Theo bà T, vợ chồng bà A có vay của bà 14 tỉ đồng. Do vợ chồng bà A không trả nên ngày 7-5-2021, bà T khởi kiện vợ chồng bà A tại TAND huyện Dầu Tiếng. Do hai bên thỏa thuận được nên ngày 9-6-2021, TAND huyện Dầu Tiếng ra quyết định công nhận sự thỏa thuận, vợ chồng bà A đồng ý có nghĩa vụ trả cho bà T 14 tỉ đồng.
Bà T đã làm đơn yêu cầu thi hành án và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Dầu Tiếng đã ra quyết định thi hành án.
Tuy nhiên, bà T sau đó nhận được thông tin trươc đó ngày 22-4-2021, vợ chồng bà A đã lập hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng tài sản duy nhất là nhà và đất tại huyện Dầu Tiếng cho bà Tr với giá 15 tỉ đồng.
Đến ngày 12-5-2021 (tức sau ngày tòa thụ lý đơn kiện của bà T), vợ chồng bà A và bà Tr đã công chứng ký hợp đồng chuyển nhượng với giá ghi trên hợp đồng là 200 triệu đồng và bà Tr đã được cấp GCN vào ngày 14-6-2021.
Bà T tiếp tục khởi kiện yêu cầu tuyên hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu, hủy GCN nhưng TAND huyện Dầu Tiếng bác...