Toàn bộ kiến thức cơ bản về ung thư vú
Ung thư vú là loại ung thư thường gặp nhất ở phụ nữ. Đa số bệnh xảy ra ở phụ nữ trên 50 tuổi, tuy nhiên phụ nữ trẻ hơn vẫn có thể bị bệnh.
Ung thư vú
Ung thư vú là loại ung thư thường gặp nhất ở phụ nữ. Đa số bệnh xảy ra ở phụ nữ trên 50 tuổi nhưng phụ nữ trẻ hơn vẫn có thể bị bệnh. Nếu bạn thấy có một khối hoặc thay đổi so với bình thường ở vú, bạn nên đi khám ngay. Nếu ung thư vú được chẩn đoán giai đoạn sớm, khả năng chữa lành bệnh sẽ cao. Nhìn chung, ung thư càng tiến xa (tăng trưởng và lan rộng), khả năng chữa hết bệnh càng thấp. Tuy nhiên, điều trị vẫn có thể làm chậm tiến triển của bệnh.
Tuyến vú
Tuyến vú dính vào lớp cơ ở thành ngực. Phần đuôi tuyến vú có thể kéo dài đến nách. Tuyến vú bao gồm:
Nhiều tiểu thùy cấu tạo từ mô tuyến. Chúng tạo ra sữa khi bạn có thai. Ống dẫn sữa. Đây là những kênh chuyển sữa từ các tiểu thùy đi đến núm vú. Mô mỡ và mô liên kết nâng đỡ. Mạch máu, mạch bạch huyết và thần kinh (như mọi nơi khác trong cơ thể).
Nhiều phụ nữ thấy rằng vú của họ sưng lên và đau trước khi hành kinh. Vú cũng thay đổi kích thước và hình dạng khi lớn tuổi, có thai và thay đổi cân nặng nhiều. Điều quan trọng là bạn biết tuyến vú của chính bạn – hình dạng và cảm nhận của nó – và có thể cho bác sĩ biết ngay khi có những thay đổi xảy ra.
Ung thư là gì?
Ung thư là bệnh của các tế bào trong cơ thể. Cơ thể ta được tạo nên từ hàng triệu tế bào. Có nhiều loại tế bào khác nhau và có nhiều loại ung thư khác nhau xuất phát từ những loại tế bào này. Điểm chung ở chúng là tế bào ung thư là những tế bào bất thường và có thể nhân lên không kiểm soát được.
Khối u ác tính là một khối mô tăng sinh từ những tế bào ung thư nhân lên liên tục. Khối u ác tính xâm lấn các mô và cơ quan xung quanh và có thế gây tổn thương.
Khối u ác tính cũng lan tới những nơi khác nhau trong cơ thể. Điều này xảy ra nếu một số tế bào thoát khỏi nơi có khối u ban đầu (nguyên phát) và đi theo dòng máu hoặc dòng bạch huyết đến nơi khác. Những nhóm nhỏ tế bào này sẽ nhân lên để tạo thành các khối u thứ phát (di căn) ở một hoặc nhiều chỗ trong cơ thể. Khối u di căn này tăng sinh, xâm lấn và gây tổn thương những mô gần đó và tiếp tục di chuyển.
Một số ung thư nguy hiểm hơn các ung thư khác, một số dễ điều trị hơn (đặc biệt nếu chẩn đoán vào giai đoạn sớm), và một số có tiên lượng tốt hơn ung thư khác. Như vậy, ung thư không chỉ là một tình trạng đơn thuần. Ở mỗi trường hợp, cần phải biết chính xác loại ung thư nào đang diễn ra, nó lớn mức nào và đã di căn hay chưa. Điều này giúp bạn có thông tin đáng tin cậy về các lựa chọn điều trị và tiên lượng bệnh.
Ung thư vú là gì?
Ung thư vú một trong những ung thư thường gặp nhất. Khoảng một trong chín người phụ nữ có thể mắc bệnh trong đời họ.
Gần 48.000 trường hợp mắc bệnh ở nước Anh mỗi năm. Đa số phát triển ở phụ nữ trên 50 tuổi nhưng độ tuổi trẻ hơn vẫn có thể bị bệnh. Ung thư vú cũng có thể có ở nam giới, tuy nhiên hiếm gặp. Ung thư vú phát triển từ các tế bào ác tính, bắt nguồn từ thành của ống dẫn sữa hoặc tiểu thùy ở một trong hai tuyến vú.
Có một số phân nhóm của ung thư vú quan trọng cần biết, do điều trị và tiên lượng thay đổi, tùy theo chính xác loại ung thư. Những yếu tố sau đây cho biết đại khái về các phân nhóm chính. Bác sĩ sẽ cho bạn nhiều thông tin cụ thể hơn về loại ung thư mà bạn có.
Xâm lấn hay tại chỗ?
Đa số ung thư vú được chẩn đoán khi khối u đã phát triển từ ống dẫn sữa hoặc tiểu thùy ra mô xung quanh tuyến vú. Đây được gọi là ung thư vú xâm lấn. Ung thư vú xâm lấn cũng có thể phân làm nhóm mà tế bào đã xâm lấn mạch máu hay mạch bạch huyết và nhóm thì chưa.
Một số người được chẩn đoán khi tế bào ung thư vẫn còn nằm hoàn toàn trong ống sữa hoặc tiểu thùy. Đây là ung thư tại chỗ, do chưa có tế bào nào thoát ra khỏi nơi phát triển đầu tiên của nó cả. Ung thư ống tuyến vú tại chỗ (Ductal carcinoma in situ – DCIS) là loại thường gặp nhất của ung thư vú không xâm lấn, chiếm 1 trong 5 ca mới mắc bệnh. Loại ung thư này dễ điều trị hơn và có tiên lượng sống còn tốt hơn ung thư vú xâm lấn.
Phân độ (Grade) của ung thư vú
Một mẫu mô vú có thể được nhìn dưới kính hiển vi. Phân độ của mô ung thư vú có thể có được nhờ đánh giá một số tính chất tế bào học.
Grade 1 – tế bào ung thư phát triển chậm và ít xâm lấn Grade 2 – phân độ trung gian. Grade 3 – tế bào ung thư phát triển nhanh và xâm lấn nhiều hơn.
Sự hiện diện của thụ thể
Một số loại tế bào ung thư vú có thụ thể, cho phép một vài loại hormone hoặc protein gắn lên chúng. Những loại thụ thể đã được xét nghiệm bao gồm:
Xét nghiệm một mẫu tế bào ung thư vú có thể cho thấy chúng có chứa thụ thể với estrogen hay không. Estrogen là hormone của giới nữ. Nhìn chung, khoảng 7 trên 10 ung thư vú có thụ thể với estrogen dương tính. Điều trị có thể ngăn chặn estrogen gắn với loại ung thư này. HER2 (Yếu tố tăng trưởng biểu mô người) là loại protein có thể ảnh hưởng sự tăng trưởng của một số tế bào ung thư. Nó được tìm thấy trên bề mặt của tế bào vú bình thường. Một số loại ung thư vú có số lượng thụ thể HER2 rất cao, đây được gọi là ung thư vú có HER2 dương tính.
Giai đoạn ung thư
Giai đoạn ung thư không diễn tả loại ung thư nhưng nói lên ung thư đã tăng sinh đến mức nào và đã di căn chưa. Nhìn chung, giai đoạn càng sớm, khả năng chữa lành bệnh càng cao.
Nguyên nhân ung thư vú
Một khối u di căn xuất phát từ một tế bào bất thường. Nguyên nhân chính xác vì sao một tế bào trở nên ác tính vẫn chưa được biết rõ. Người ta cho rằng có điều gì đó làm tổn thương hoặc thay đổi các gen trong tế bào. Điều này làm tế bào trở nên bất thường và nhân đôi không kiểm soát.
Yếu tố nguy cơ
Dù ung thư vú có thể xuất hiện mà không có lý do gì rõ ràng, có một số yếu tố nhất định làm tăng nguy cơ bị ung thư vú. Chúng bao gồm:
- Tuổi. Nguy cơ mắc ung thư vú gần như gấp đôi sau mỗi 10 năm. Đa số ung thư vú phát triển ở phụ nữ sau 50 tuổi.
- Nơi bạn sống. Số mắc ung thư vú khác nhau ở mỗi nước. Điều này có thể phản ánh các yếu tố về gen hoặc môi trường.
- Tiền căn gia đình. Điều này nói rằng nếu bạn có họ hàng gần có hoặc đã biết có ung thư vú. Đặc biệt nếu họ được chẩn đoán bệnh khi dưới 50 tuổi.
- Nếu bạn từng bị ung thư vú trước đây.
- Không có con hoặc có con đầu sau 30 tuổi.
- Không cho con bú.
- Có kinh sớm.
- Ngực bị phơi nhiễm phóng xạ.
- Mãn kinh khi trên 55 tuổi.
- Dùng liệu pháp thay thế hormone kết hợp liên tục nhiều năm (đối với phụ nữ trên 50 tuổi) làm tăng nguy cơ một ít.
- Dùng nhiều rượu bia.
- Tiền căn gia đình và xét nghiệm gen. Khoảng 1 trong 20 trường hợp ung thư vú gây ra bởi di truyền gen mắc lỗi. Gen BRCA1 và BRCA2 là 2 gen bị lỗi hay gặp nhất.
Triệu chứng ung thư vú Khối u ở vú
Triệu chứng thường gặp đầu tiên là một khối không đau ở vú.
Lưu ý: đa số khối u vú không phải ung thư. Đa số khối ở vú là nang chứa dịch hoặc bướu sợi tuyến vú (một khối mô tuyến) lành tính. Tuy nhiên, bạn luôn cần gặp bác sĩ nếu xuất hiện khối u vú, do chúng có thể là ung thư.
Các triệu chứng khác của ung thư vú
Các triệu chứng khác có thể nhận thấy ở vú bị bệnh bao gồm:
- Thay đổi kích thước hoặc hình dạng vú.
- Da trũng xuống hoặc dày lên ở một số nơi trên vú.
- Núm vú bị tụt vào.
- Hiếm khi có thể thấy dịch chảy ra từ núm vú (có thể lẫn máu).
- Một loại ung thư vú hiếm gặp gây đỏ da quanh núm vú và có thể nhìn giống những mảng chàm.
- Hiếm khi có thể thấy đau một bên vú. Lưu ý: đau không phải là triệu chứng sớm thường gặp. Nhiều phụ nữ bị đau vú và đây thường không phải là ung thư.
Nơi ung thư vú thường xâm lấn đầu tiên là tuyến (nốt) bạch huyết ở hố nách. Nếu điều này xảy ra, bạn có thể bị sưng hoặc thấy có khối ở nách. Nếu ung thư lan đến các phần khác của cơ thể thì nhiều triệu chứng khác có thể xuất hiện.
Chẩn đoán ung thư vú
Đánh giá ban đầu
Nếu bạn thấy có khối ở vú hoặc có triệu chứng có thể là của ung thư vú, bác sĩ sẽ khám vú và hố nách của bạn nhằm tìm ra khối u và các thay đối khác. Bạn thường sẽ được giới thiệu đến một chuyên gia. Đôi khi, sinh thiết một mẫu mô của khối u (xem thêm bên dưới) sẽ được làm, nhưng thường các xét nghiệm được làm đầu tiên sẽ là:
Chụp nhũ ảnh. Đây là loại X-quang đặc biệt khảo sát tuyến vú. Siêu âm tuyến vú. MRI tuyến vú. Thường phụ nữ trẻ sẽ hay làm xét nghiệm này hơn do mô vú họ còn dày.
Sinh thiết nhằm khẳng định chẩn đoán
Sinh thiết là quá trình lấy một mẫu mô ra từ cơ thể bạn. Mẫu mô này sẽ được quan sát dưới kính hiển vi để tìm tế bào bất thường. Một bác sĩ sẽ lấy sinh thiết bằng kim đâm vào khối u vú để hút lấy tế bào. Đôi khi bác sĩ cần phải được hướng dẫn đúng vị trí lấy mẫu nhờ nhũ ảnh hoặc hình ảnh siêu âm. Đôi khi cần đến một tiểu phẫu nhỏ để có thể lấy mẫu.
Sinh thiết có thể giúp khẳng định hoặc loại trừ ung thư vú. Tế bào từ khối u tìm thấy có thể được đánh giá và xét nghiệm nhằm phân độ (grade) và tình trạng thụ thể (xem phía trên).
Đánh giá độ lan rộng
Nếu bạn đã được chẩn đoán ung thư vú, các xét nghiệm tiếp theo nhằm giúp đánh giá nó đã lan rộng hay chưa – bao gồm:
Xét nghiệm máu;
Siêu âm gan;
X-quang ngực;
Xạ hình xương;
Các xét nghiệm khác.
Các bước này nhằm đánh giá giai đoạn ung thư. Mục đích của việc này nhằm tìm ra:
Độ lớn của khối u;
Khối u đã di căn đến hạch nách chưa;
Khối u đã di căn đến các nơi khác của cơ thể chưa.
Tìm ra giai đoạn của ung thư, phân độ tế bào và tình trạng thụ thể của chúng sẽ giúp bác sĩ tìm ra cách điều trị tốt nhất. Nó cũng giúp thấy được tiên lượng bệnh.
Điều trị ung thư vú
Các lựa chọn điều trị bao gồm phẫu thuật, hóa trị, xạ trị và hormone. Thông thường sẽ cần tới kết hợp hai hoặc nhiều hơn các phương pháp này. Điều trị như thế nào phụ thuộc vào:
Loại ung thư – kích thước và giai đoạn (nó đã lan đi đâu chưa), phân độ tế báo và tình trạng đáp ứng với hormone hoặc chứa thụ thể HER2;
Bệnh nhân – tuổi, tình trạng mãn kinh, sức khỏe tổng quát và mong muốn của họ.
Bạn nên có cuộc nói chuyện với bác sĩ của bạn. Bác sĩ sẽ cho bạn biết lợi ích và bất lợi, tỉ lệ thành công, tác dụng phụ có thể có và các chi tiết khác về lựa chọn điều trị thích hợp cho bạn.
Bạn cũng nên nói chuyện với bác sĩ về mục tiêu điều trị. Chẳng hạn:
Điều trị có thể chữa hết bệnh ở nhiều trường hợp. Đặc biệt, giai đoạn bệnh càng sớm thì khả năng chữa khỏi càng cao. Nhờ vào nhũ ảnh thường quy, nhiều phụ nữ đã được chẩn đoán bệnh thời điểm sớm và có cơ may được chữa khỏi. Bác sĩ có khuynh hướng dùng từ “thuyên giảm bệnh” hơn là từ “hết bệnh”.
Thuyên giảm bệnh có nghĩa rằng không còn dấu vết của ung thư sau khi điều trị. Nếu bệnh của bạn thuyên giảm, bạn có thể đã được chữa khỏi. Tuy nhiên, ở một vài trường hợp ung thư có thể trở lại sau vài tháng hoặc năm. Đây là lý do bác sĩ thường lưỡng lự hơn khi dùng từ “chữa khỏi bệnh”.
Điều trị có thể nằm kiểm soát ung thư. Nếu không thể chữa khỏi, điều trị vẫn có thể làm giảm độ tăng sinh và lan rộng của ung thư, làm nó tiến triển chậm hơn. Việc này có thể giúp bạn không có triệu chứng bệnh trong một thời gian.
Điều trị có thể nhằm giảm nhẹ triệu chứng ở một số trường hợp. Ngay cả khi chữa khỏi là không thể, điều trị vẫn có thể được dùng nhằm giảm kích thước bướu và giảm triệu chứng như đau. Nếu ung thư đã tiến xa, bạn có thể cần đến bổ sung dinh dưỡng, thuốc giảm đau và một số phương pháp khác nhằm giúp bạn không đau hoặc không có triệu chứng.
Phẫu thuật
Các loại phẫu thuật được xem xét bao gồm:
Phẫu thuật bảo tồn tuyến vú. Đây là phẫu thuật thường được lựa chọn nếu khối u không quá lớn. Cắt tiểu thùy vú (hoặc cắt rộng tại chỗ) là khi chỉ khối u và một số mô vú xung quanh nó được cắt bỏ. Thông thường sau đó bệnh nhân cần phải xạ trị nhằm giúp loại bỏ những tế bào ung thư có thể còn sót trong mô vú.
Cắt một tuyến vú. Điều này là cần thiết nếu khối u lớn hoặc nằm giữa tuyến vú. Thông thường sau phẫu thuật này bệnh nhân có thể được tạo hình tuyến vú mới và việc này có thể được làm cùng lúc sau khi cắt tuyến vú, hoặc nó có thể được làm sau vài tháng hoặc năm. Hiện nay có rất nhiều phẫu thuật tái tạo vú đang được áp dụng.
Sinh thiết hạch canh gác. Đây là cách đánh giá các nốt bạch huyết chính dẫn lưu mô ung thư vú. Nếu kết quả là sạch thì những hạch khác ở nạch không cần phải nạo. Nếu việc này không thể làm được, một hoặc nhiều hạch nách có thể phải nạo bỏ. Việc này giúp đánh giá giai đoạn bệnh chính xác và giúp bác sĩ hướng tới điều trị nào tiếp theo sau phẫu thuật.
Xạ trị
Xạ trị là việc dùng những tia phóng xạ năng lượng cao và tập trung chúng vào mô ung thư. Chúng giết tế bào ung thư hoặc ngăn cản nó nhân đôi.
Đối với ung thư vú, xạ trị chủ yếu dùng chung với phẫu thuật. Chẳng hạn, nếu bạn phải trải qua phẫu thuật bảo tồn tuyến vú, thường bạn sẽ phải xạ trị tuyến vú đó sau mổ. Điều này giúp ngăn cản ung thư vú trở lại ở cùng tuyến vú đó. Khi xạ trị được dùng chung với phẫu thuật, nó được gọi là xạ trị tân hỗ trợ.
Liệu pháp hormone
Một số loại ung thư vú bị ảnh hưởng bởi hormone estrogen và progesterone ở nữ giới. Những hormone này kích thích tế bào ung thư nhân đôi. Đa số estrogen và progesterone được tiết ra từ buồng trứng. Điều trị bao gồm giảm lượng hormone hoặc ngăn cản chúng hoạt động thường được dùng ở bệnh nhân mắc ung thư vú.
Liệu pháp hormone có hiệu quả nhất trên phụ nữ có ung thư vú đáp ứng với hormone; tuy nhiên, đôi khi nó cũng có tác dụng trên loại ung thư không đáp ứng với hormone.
Liệu pháp hormone bao gồm:
Chất ức chế estrogen. Tamoxifen là thuốc đã được dùng trong nhiều năm và nay được dùng rộng rãi. Thuốc tác động bằng việc ngăn cản estrogen có tác dụng lên tế bào. Nó thường được dùng trong 5 năm. Một số loại ức chế estrogen khác cũng đang được dùng.
Chất ức chế aromatase. Đây là thuốc tác động bằng việc ngăn cản sản xuất estrogen ở một số mô. Thuốc được dùng cho phụ nữ đã mãn kinh. Chúng bao gồm anaxtrozole, letrozole và exemestane.
Chất đồng vận GnRH (Hormone giải phóng gonadotrophin). Chúng tác dụng qua việc giảm lượng estrogen do buồng trứng tạo ra. Có nhiều loại thuốc nhóm này, loại thường dùng nhất là goserelin. Chúng được dùng đường tiêm và có thể dùng cho phụ nữ chưa mãn kinh.
Một lựa chọn khác cho phụ nữ đã mãn kinh là cắt 2 buồng trứng (hoặc phá hủy chúng nhờ xạ trị). Việc này làm ngừng quá trình tổng hợp estrogen.
Hóa trị
Hóa trị là việc dùng hóa chất kháng ung thư nhằm tiêu diệt tế bào ung thư hoặc ngăn nó nhân đôi.
Khi hóa trị dùng chung với phẫu thuật, nó tên là hóa trị hỗ trợ. Chẳng hạn, sau mổ bạn có thể cần một đợt hóa trị. Việc này giúp giếp tế bào ung thư đã lan khỏi khối u đầu tiên.
Hóa trị cũng dùng để làm nhỏ khối u trước phẫu thuật nhằm giúp phẫu thuật có khả năng thành công hơn và một cuộc mổ nhỏ cũng có thể được tiến hành. Đây được gọi là hóa trị tân hỗ trợ. Loại hóa trị nào cũng còn tùy thuộc từng loại ung thư.
Xét nghiệm gen mới đang được phát triển nhằm giúp bác sĩ quyết định đối tượng bệnh nhân nào sẽ hưởng lợi nhiều nhất từ hóa trị.
Hóa trị cũng có thể dùng ở bệnh nhân để trị ung thư vú đã lan đến các nơi khác.
Trastuzumab (Herceptin)
Trastuzumab (còn được gọi là Herceptin) là thuốc dùng cho bệnh nhân có lượng lớn thụ thể HER2 trong mô ung thư. Đây là thuốc kháng thể đơn dòng. Nó tác động qua việc gắn với thụ thể HER2 trên bề mặt tế bào ung thư, ngăn cản chúng nhân đôi và phát triển.
Tóm lại
Kế hoạch điều trị có thể khác nhau rất nhiều tùy mỗi trường hợp do điều trị tốt nhất phụ thuộc nhiều yếu tố khác nhau.
Tiên lượng ung thư vú
Tiên lượng bệnh đã cải thiện rất nhiều những năm gần đây. Tử vong do ung thư vú đang ở mức thấp nhất trong 40 năm qua. Điều này chủ yếu là do các tiến bộ trong điều trị ung thư vú. Tiên lượng là tốt nhất ở người được chẩn đoán khi ung thư còn nhỏ và chưa lan. Nhiều trường hợp ung thư vú hiện nay được chẩn đoán và điều trị giai đoạn sớm. Nhìn chung, ung thư càng tiến xa (lan rộng) thì khả năng chữa khỏi bệnh càng giảm.
Điều trị ung thư đang là một mảng rất phát triển của y học. Phương thức điều trị mới đang được phát triển từng ngày và những thông tin tiên lượng ở trên là rất tổng quát. Bác sĩ của bạn sẽ giúp bạn có thông tin rõ hơn và tiên lượng cụ thể của bạn, cũng như phân độ và giai đoạn bệnh sẽ đáp ứng thế nào với điều trị.
Tầm soát ung thư vú
Phụ nữ Anh tuổi từ 50 đến 70 được khuyến khích chụp nhũ ảnh mỗi 3 năm. Việc này đang dần được nới rộng cho phụ nữ tuổi 47-73.
Nhũ ảnh là loại X-quang đặc biệt nhằm giúp phát hiện ung thư vú giai đoạn sớm khi chữa khỏi bệnh là có thể.
Xét nghiệm gen và nhũ ảnh (cũng như điều trị phòng ngừa ở một số trường hợp) có thể được khuyên ở phụ nữ trẻ với tiền căn gia đình có người bị ung thư vú. Hãy gặp bác sĩ nếu điều này đúng với bạn.
Phòng ngừa bệnh
Nhiều ca ung thư vú được phát hiện sớm qua tầm soát. Tuy nhiên, một số nhỏ là không như vậy. Nhiều phụ nữ có thể đã mắc ung thư vú trước khi họ chụp nhũ ảnh lần đầu tiên và một số có thể bị giữa 2 lần chụp nhũ ảnh. Phụ nữ ở mọi độ tuổi nên có hiểu biết về ung thư vú, có nghĩa là bạn biết vú và núm vú bạn bình thường trông và cảm nhận như thế nào. Cố gắng nhận ra bất kì thay đổi nào trong và sau khi bạn hành kinh. Gặp bác sĩ nếu bạn thấy có thay đổi, khối hoặc bất thường khác ở vú hoặc núm vú. Đừng chờ đến kì kiểm tra tầm soát tiếp theo cũng bạn.
Có một số bằng chứng cho rằng luyện tập thể thao thường xuyên có thể làm giảm nguy cơ ung thư vú đến 1/3. Nếu bạn đã mãn kinh, điều cực kỳ quan trọng là bạn không thừa cân hoặc béo phì, do béo phì làm tăng lượng estrogen được sản xuất và tăng nguy cơ gây ung thư vú.
Nghiên cứu cho thấy rằng phụ nữ cho con bú ít bị ung thư vú hơn người không có. Lý do có thể nhất là do họ không rụng trứng thường xuyên khi cho con bú và lượng estrogen được ổn định.
Có hai cách điều trị ngăn ngừa bệnh – cắt toàn bộ tuyến vú hoặc dùng thuốc. Phẫu thuật có thể dùng để điều trị ung thư vú cũng như giảm khả năng mắc bệnh. Qua việc lấy đi càng nhiều mô vú có thể, cắt tuyến vú làm giảm khả năng mắc bệnh lên tới 90%. Cũng như mọi loại phẫu thuật, một số biến chứng có thể xảy ra và đây là điều không dễ dàng. Nếu xét nghiệm gen cho thấy bạn là một trong số ít phụ nữ đến từ gia đình nguy cơ cao, bạn cần có cuộc nói chuyện kĩ với bác sĩ của bạn trước khi quyết định mổ.