Toàn cảnh giáo dục 2025: Năm của 'đổi pha' và tái thiết bằng thể chế

Năm 2025 khép lại với những biến chuyển mạnh mẽ của nền giáo dục nước nhà, từ kỳ thi tốt nghiệp theo chương trình mới đến việc thông qua các dự thảo luật quan trọng. Trao đổi với Chuyên trang Sinh Viên Việt Nam - Báo Tiền Phong, TS. Hoàng Ngọc Vinh - Nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục Chuyên nghiệp, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có những phân tích sâu sắc về một năm 'bản lề' với nhiều kỳ vọng và thách thức.

Thưa ông, khép lại năm 2025 với nhiều thay đổi lớn, ông có đánh giá tổng quan như thế nào về diện mạo của giáo dục Việt Nam trong năm vừa qua? Nếu so sánh với giai đoạn trước, theo ông, đâu là những sự chuyển dịch đáng chú ý nhất?

TS. Hoàng Ngọc Vinh: Tôi nhìn 2025 như một năm "đổi pha": giáo dục không chỉ chỉnh sửa kỹ thuật mà bắt đầu tái thiết bằng thể chế, tài khóa và cấu trúc vận hành. So với giai đoạn trước, ba chuyển dịch nổi bật là: tăng nhấn mạnh công bằng tiếp cận (giảm gánh chi phí học tập), đẩy mạnh liên thông và thống nhất quản lý nhà nước giữa phổ thông - giáo dục nghề nghiệp - giáo dục đại học, và siết lại kỷ luật thực thi theo hướng minh bạch, giải trình, đo được bằng dữ liệu.

Điều quan trọng là các thay đổi này không đứng riêng lẻ, mà kéo nhau thành "bộ truyền động": chính sách tài khóa tạo áp lực chuẩn hóa quản trị, buộc nhà trường nâng chất lượng thật. Điều rất đáng nhấn mạnh là năm 2025 có đến bốn Dự thảo luật liên quan đến giáo dục được Quốc hội thông qua và đổi mới thể chế giáo dục theo chính quyền ba cấp. Như vậy, năm 2025 không chỉ "nhiều văn bản" thể chế hóa chính sách phát triển giáo dục, mà là năm đặt nền móng cho một chu kỳ cải cách dài hơi nhiều cơ hội thuận lợi và không ít thách thức ở phía trước.

Trong năm 2025, nhiều văn bản và chính sách mới đã được đưa vào thực tiễn. Theo quan sát của ông, chính sách nào đã tạo ra tác động rõ nét nhất đến hệ thống các nhà trường và người học? Ông nhìn nhận thế nào về tính hiệu quả bước đầu của những chính sách này?

TS. Hoàng Ngọc Vinh: Tác động rõ nét nhất là nhóm chính sách liên quan chi phí học tập và kỷ cương dạy - học: miễn/hỗ trợ học phí tạo hiệu ứng xã hội tức thì, còn các quy định quản lý học phí và dạy thêm, học thêm tác động trực tiếp đến hành vi của nhà trường, giáo viên, phụ huynh. Hiệu quả bước đầu là "hạ nhiệt" một phần áp lực tài chính và đặt lại câu hỏi về chất lượng giờ học chính khóa: nếu dạy đủ tốt trong trường thì nhu cầu học thêm tự khắc giảm.

Tuy nhiên, hiệu quả này chỉ bền khi quản trị đi kèm minh bạch: thu - chi, tài trợ, xã hội hóa, các khoản dịch vụ… đều phải rõ ràng để tránh "miễn cái này nhưng phát sinh thu khác". Và quan trọng nữa, chính sách phải đi cùng cơ chế hỗ trợ nhà trường nâng chất (đội ngũ, học liệu, thời lượng thực học), nếu không sẽ dễ rơi vào tình trạng "siết mà không gỡ".

Năm nay là năm đầu tiên lứa học sinh theo học Chương trình GDPT 2018 tham dự kỳ thi tốt nghiệp THPT theo phương thức mới. Ông đánh giá ra sao về kết quả của kỳ thi này cũng như năng lực thực tế của lứa học sinh tốt nghiệp năm 2025 trong việc đáp ứng các yêu cầu mới của bậc đại học và thị trường lao động?

TS. Hoàng Ngọc Vinh: Về mặt kỹ thuật, kỳ thi 2025 cho thấy phổ điểm một số môn, đặc biệt Toán, và ở mức độ nhất định là tiếng Anh có xu hướng lệch phải (positive skew): nhiều bài ở vùng điểm thấp, "đuôi" kéo dài về phía điểm cao. Điều đó nói rằng đề đã dựng "rào" khá mạnh: có ích cho nhận diện nhóm khá, giỏi phục vụ tuyển sinh, nhưng đồng thời làm lộ khoảng trống nền tảng của một bộ phận thí sinh, nhất là tư duy định lượng và năng lực học thuật.

Về năng lực thực tế, tôi thấy lứa học sinh này linh hoạt hơn, quen với lựa chọn và định hướng, nhưng vẫn chịu tác động bởi chênh lệch điều kiện dạy học giữa các trường, các vùng. Vì vậy, đại học nên chủ động "đón" bằng các học phần bù nền (Toán, đọc - viết học thuật, năng lực số) và tăng học qua dự án/thực tập, còn phổ thông cần củng cố chất lượng dạy học nền tảng để giảm “đứt gãy” khi chuyển bậc.

Tự chủ đại học tiếp tục là câu chuyện trọng tâm của năm 2025. Ông có nhận định gì về lộ trình tự chủ hiện nay tại các cơ sở giáo dục đại học? Theo ông, mối tương quan giữa mức học phí và chất lượng đào tạo hiện nay đang diễn biến theo chiều hướng nào?

TS. Hoàng Ngọc Vinh: Tự chủ đã đi được một quãng đường, nhưng điểm yếu là không đồng đều và đôi khi lệch trọng tâm: nơi làm tốt thì tự chủ thúc đẩy đổi mới, nơi làm chưa tới thì tự chủ bị hiểu thành "tự lo tài chính", còn quản trị học thuật và chất lượng theo sau.

Mối quan hệ học phí - chất lượng vì thế chưa "tự động" tăng cùng chiều: tăng học phí không đảm bảo tăng chất lượng nếu thiếu KPI đầu ra, kiểm định thực chất và công khai dữ liệu.

Tôi cho rằng giai đoạn tới phải buộc tự chủ đi cùng ba thứ: Đảng ủy phải có thực quyền bởi những người có trình độ quản trị đại học và có phẩm chất chính trị tốt, kiểm định độc lập và minh bạch, và trách nhiệm giải trình bằng kết quả như năng lực tốt nghiệp, trải nghiệm học tập, tỷ lệ việc làm.

Khi xã hội nhìn thấy đồng tiền học phí đi vào phòng thí nghiệm, thư viện, giảng viên, thực tập và dịch vụ sinh viên, thì tự chủ mới có "tín nhiệm" chứ không chỉ là một cơ chế tài chính.

Với kinh nghiệm nhiều năm trong lĩnh vực giáo dục chuyên nghiệp, ông đánh giá thế nào về công tác phân luồng và tâm lý chọn nghề của học sinh, sinh viên trong năm 2025? Liệu đã có sự thay đổi nào trong tư duy của người học về việc lựa chọn giữa đại học và học nghề chưa, thưa ông?

TS. Hoàng Ngọc Vinh: Có chuyển động, nhưng chưa thành "bước ngoặt". Người học đã thực dụng hơn khi nhìn vào việc làm và kỹ năng, song tâm lý chuộng bằng vẫn mạnh vì con đường nghề chưa đủ hấp dẫn về trải nghiệm học - làm và cơ chế về liên thông tắc nghẽn. Phân luồng chỉ thật khi xã hội nhìn thấy ba điều: dữ liệu việc làm - thu nhập theo ngành minh bạch, mô hình học gắn doanh nghiệp (học tại nơi làm việc, đặt hàng, chuẩn kỹ năng), và lộ trình học tiếp theo năng lực.

Nếu người học thấy học nghề ra làm được việc, thu nhập tốt, lại vẫn có đường học lên, có cơ hội phát triển sự nghiệp như tốt nghiệp THPT, thì lựa chọn sẽ bớt định kiến. Năm 2025 đã đặt nền về mặt quản lý và thể chế (tái thành lập trung học nghề và khẳng định tương đương về pháp lý với THPT); việc còn lại là biến nền ấy thành cơ hội thật ở từng địa phương và từng ngành nghề.

Từ thực tế của năm 2025, ông có dự báo gì về xu hướng phát triển của giáo dục Việt Nam trong năm 2026? Ông có khuyến nghị gì gửi tới các nhà quản lý và các cơ sở đào tạo để nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục trong thời gian tới?

TS. Hoàng Ngọc Vinh: 2026 sẽ là năm "nặng triển khai": nhiều quyết sách và luật ban hành trong 2025 bắt đầu đi vào hiệu lực sâu, kéo theo thay đổi dây chuyền từ quản trị địa phương, đội ngũ nhà giáo, đến liên thông và tổ chức chương trình.

Tôi dự báo xu hướng sẽ là: chuẩn hóa quản trị theo dữ liệu, tăng yêu cầu minh bạch chất lượng, và thúc mạnh liên thông giữa các bậc học gắn với nhu cầu kỹ năng. Khuyến nghị của tôi: nhà quản lý tập trung vào năng lực thực thi (phân quyền rành mạch, quy trình thống nhất, dữ liệu dùng chung, cơ chế giám sát – sửa sai nhanh), đồng thời đầu tư đúng chỗ cho đội ngũ và hạ tầng số. Với cơ sở đào tạo, trọng tâm là chất lượng đầu ra: chuẩn năng lực, kiểm định thực chất, tăng học qua dự án/thực hành, phổ cập năng lực số và AI ở mức "biết dùng để học và làm việc". Chỉ khi người học tốt nghiệp "làm được việc" và trường học tạo niềm tin, cải cách mới đứng vững.

TS. Hoàng Ngọc Vinh: Cuối cùng, tôi muốn nhấn mạnh ba bức xúc xã hội mà nếu không xử lý, cải cách rất dễ bị đánh giá là "xa đời sống": thi vào lớp 10 công lập, học thêm, và bạo lực học đường. Đây là nơi phụ huynh và học sinh "xóc" mạnh nhất, áp lực cơ hội, chi phí và an toàn trường học - và cũng là phép thử xem cải cách có chạm tới lớp học hay không.

Đặc biệt, chúng ta cần quyết liệt ngăn chặn tư duy biến trường học thành nơi kinh doanh, liên kết dịch vụ để kiếm lời. Đừng để xảy ra nghịch lý "miễn học phí ở cổng trường nhưng lại tận thu trong lớp học" biến phụ huynh thành những "khách hàng bất đắc dĩ". Chi tiêu và tài chính nhà trường phải tuyệt đối minh bạch, không được để thương mại hóa trá hình len lỏi làm lệch lạc môi trường sư phạm.

Về giải pháp, tôi đề nghị ngành giữ kỷ luật thực thi nghiêm ngặt. Công tác thanh tra, kiểm tra phải làm thật mạnh, làm đến nơi đến chốn. Phải thanh tra thường xuyên, đột xuất và xử lý vi phạm phải "đủ đau" để răn đe, thay vì chỉ kiểm tra chiếu lệ dịp đầu hay cuối năm.

Khi kỷ luật minh bạch và trách nhiệm giải trình được thực hiện nghiêm, những quyết sách lớn của 2025 mới biến thành thay đổi thực chất trong giai đoạn 2026 – 2030. Cuối cùng, công tác khảo thí cũng cần tiếp tục được hiện đại hóa và xã hội hóa nguồn lực một cách chuyên nghiệp.

Trân trọng cảm ơn ông!

Nguồn SVVN: https://svvn.tienphong.vn/toan-canh-giao-duc-2025-nam-cua-doi-pha-va-tai-thiet-bang-the-che-post1807314.tpo