Trăm năm có một, tạc tượng lòng dân

Ngày 25/8 vừa qua, Tổng Bí thư Tô Lâm đã trao danh hiệu Anh hùng Lao động tặng nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình. Có lẽ, hiếm có người phụ nữ nào trên đất nước Việt Nam mà câu chuyện của bà đã nửa thế kỉ trôi qua nhưng luôn âm vang một niềm tự hào trong trăm triệu trái tim người Việt.

Nữ tướng ngoại giao tài ba

Bà Nguyễn Thị Bình tên thật là Nguyễn Thị Châu Sa, sinh năm 1927 trong một gia đình có 6 anh chị em, nguyên quán ở Gò Nổi, Điện Bàn, Quảng Nam. Cha bà là ông Nguyễn Đồng Hợi, mẹ là bà Phan Thị Châu Lan - con gái thứ hai của nhà chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh, ông nội bà là nghĩa binh trong phong trào Cần Vương, chiến đấu và hy sinh tại quê nhà.

Lịch sử đã thử thách dân tộc Việt quá nhiều phen khắc nghiệt. Trong những lần sinh tử ấy, đã có những bậc anh thư đứng lên, khoác chiến bào, xông pha trận mạc. Ở mặt trận đấu tranh trực diện, chúng ta có tướng trận Nguyễn Thị Định, thì mặt trận đấu tranh ngoại giao, ta có tướng đàm phán Nguyễn Thị Bình.

Anh hùng Lao động, nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình bên bàn đàm phán Hiệp định Paris.

Anh hùng Lao động, nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình bên bàn đàm phán Hiệp định Paris.

Nếu làm một cuộc khảo sát, hỏi trong các nữ chính khách của Việt Nam thời hiện đại, những ai chiếm được tình cảm của nhiều người dân nhất thì chắc chắn một điều, một trong số đó có tên “Nguyễn Thị Bình”. Và, nếu hỏi, trong những gương mặt phụ nữ nổi tiếng của Việt Nam hiện nay, có gương mặt nào để lại nhiều đóng góp cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; đưa hình ảnh, tên tuổi và chính nghĩa của Việt Nam đi khắp năm châu bốn bể, đến với tâm hồn của bạn bè quốc tế thì cũng gần như chắc chắn trong đó có gương mặt “Madame Bình”.

Kể về cuộc đàm phán Hiệp định Paris, bà Nguyễn Thị Bình nhắc đến kỉ niệm khó quên trong bài viết “Những cuộc đấu trí quanh bàn đàm phán”. Đó là khoảng 2 giờ chiều ngày 2/11/1968, khi bước vào nhà ga sân bay Bourget, phái đoàn của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã bị bao vây. Chính bà cũng bất ngờ bởi các phóng viên xô đẩy nhau, tiếng bàn ghế gãy nghe rõ mồn một. Tất cả chỉ để tiếp cận phái đoàn và lắng nghe bà phát biểu. Họ chụp ảnh, phỏng vấn.

Và, tại đây, bà đã cất cao tiếng nói của hòa bình, của độc lập một cách dõng dạc nhất. Trong suốt thời gian 1969 đến 1971, thứ Năm hằng tuần, hai phái đoàn của ta lại đến Trung tâm hội nghị Kéleber để vạch trần âm mưu xâm lược của Mỹ, làm rõ chính nghĩa vì độc lập, tự do và thống nhất của nhân dân ta.

Từ tháng 9/1972, khi còn 2 tháng nữa là tới kỳ bầu cử Tổng thống Mỹ, nắm bắt đây là cơ hội nên cả hai phái đoàn của ta liên tục có những bước đi vừa ngoại giao, vừa thúc ép các bên ngồi vào bàn đàm phán thực chất với những yêu cầu cụ thể dựa trên dự thảo mà đồng chí Lê Đức Thọ mang sang Paris. Nhiều bước đi khôn ngoan, nhiều lần trả lời phỏng vấn sắc sảo và nhiều lần đấu trí căng thẳng đã buộc Cố vấn đặc biệt của Tổng thống Mỹ lúc đó là Kissinger phải bước vào cuộc đàm phán riêng với đồng chí Lê Đức Thọ.

Cuộc đàm phán tưởng chừng như đã dần đi về phía thắng lợi thì Tổng thống Nixon lại lật lọng, đòi sửa nội dung hiệp định và cho đánh bom 12 ngày đêm ở Hà Nội và Hải Phòng. Cả hai phái đoàn của ta bàn đến phương án cuối là ngưng đàm phán vào ngày 21/12/1972 để phản đối Mỹ ném bom.

Song song đó, tranh thủ tiếng nói quốc tế để có lợi cho ta trong giai đoạn này, cũng là trấn an với quốc tế ta sẽ vững vàng trong mặt trận chống lại mưa bom này. Khi hay tin máy bay B52 bị bắn rơi, cả bà và bạn bè quốc tế ủng hộ Việt Nam đều vui mừng ôm lấy nhau. Chính sự ngoại giao quốc tế đầy khôn ngoan và bản lĩnh đó đã khiến cả thế giới lên án hành động của Mỹ, buộc Mỹ ngưng ném bom vào ngày 30/12/1972. Đêm đó, bà cũng đặt chân về đến Hà Nội.

Diễn ra từ tháng 5/1968 đến tháng 1/1973, cuộc đàm phán Paris với hơn 200 phiên họp công khai, 45 cuộc họp riêng cấp cao, 500 cuộc họp báo và 1.000 cuộc phỏng vấn. Những số liệu cho thấy sự khốc liệt của mặt trận ngoại giao, bằng chứng sinh động về sự bền bỉ, bản lĩnh và trí tuệ của nền ngoại giao cách mạng. Và, cho thấy chất “thép” của một nhà ngoại giao nữ trong cuộc chiến không mệt mỏi này.

Đêm trước ngày ký kết hiệp định, với bà là một đêm thức trắng. Vui có, lo lắng có, và nhiều cung bậc cảm xúc khiến bà thức đến sáng. Ngày 27/1/1973, đúng 10 giờ, 4 bộ trưởng của 4 phái đoàn đã đặt bút ký 32 văn bản của hiệp định, kết thúc một cuộc đàm phán dài nhất lịch sử ngoại giao thế giới. Và, bà là người phụ nữ duy nhất ký tên trong Hiệp định Paris.

Những chấn động mang tên Madame Bình

Thế giới vẫn luôn nhắc đến bà Nguyễn Thị Bình với nhiều câu chuyện đầy kính nể. Có lần, một nhà báo phương Tây hỏi: “Bà có ở Đảng Cộng sản không?”. Bà nhanh trí trả lời: “Tôi thuộc Đảng yêu nước”. Câu trả lời thông minh ấy đã khiến nhà báo kia phải chùn lại. Trong quá trình đàm phán, bà luôn tâm niệm: “Họ có quyền hỏi, mình có quyền trả lời. Nhưng, trả lời thế nào để họ tâm phục khẩu phục, hiểu rõ hơn cuộc chiến đấu chính nghĩa của dân tộc mình, đó mới là điều quan trọng”.

Hay, khi một phóng viên hỏi bà có sợ sự xuất hiện của mình tại Paris sẽ bị phía Mỹ bắt giao cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu không. Bà đã im lặng. Khi người phóng viên hỏi tại sao bà không trả lời, với ánh mắt cương nghị, lời nói đanh thép, bà bảo những tràng cười bên dưới đã thay bà trả lời câu hỏi ngớ ngẩn của phóng viên. Hàng loạt tràng pháo tay vang dội khán phòng.

Giai thoại “khiêu vũ giữa bầy sói” của bà Nguyễn Thị Bình là giai thoại mà hầu hết người Việt Nam nào cũng biết. Đó là khoảng giữa năm 1971, truyền hình Pháp tổ chức cuộc họp báo ở hai đầu Paris và Washington, có 20 nhà báo tham gia, 10 người, phần lớn là Mỹ bảo vệ lập trường của Mỹ; 10 người, phần lớn là Pháp trung lập. Bà Bình một mình giữa các nhà báo sừng sỏ, dưới ánh đèn sáng chói đã bình tĩnh đối đáp đàng hoàng, mạnh mẽ nhưng hòa nhã, nêu rõ thiện chí muốn tìm giải pháp chính trị chấm dứt chiến tranh. Hình ảnh của bà bấy giờ khiến người ta liên tưởng đến một hình ảnh ví von là “khiêu vũ giữa bầy sói”.

“Ở đâu có bà Bình, người ta không còn nhìn thấy ai khác..., khi nghe bà Bình nói, người ta không còn muốn nghe ai khác..., bà bí ẩn..., tinh tế...”. Nhà văn Thụy Điển Sara Lidman từng viết về bà Nguyễn Thị Bình như vậy trong cuốn sách “Trong trái tim thế giới”. Lịch sử thế giới sẽ mãi mãi không quên hình ảnh người phụ nữ mặc áo dài màu hồng sậm, khoác chiếc măng tô xám với khăn quàng màu đen chấm hoa đứng giữa rừng máy ảnh và biển người vây quanh ngay khi bà vừa bước xuống máy bay. Hình ảnh được xuất hiện lên nhiều trang nhất các báo lớn của Pháp thời ấy. Nữ nhà báo người Pháp Madeleine Riffaud đã gọi sự xuất hiện ấy là “Madam Bình đã làm chấn động dư luận Paris và thế giới”.

Làm gì cũng vì đất nước

Sau khi đất nước thống nhất, bà Nguyễn Thị Bình trong tâm tưởng của nhiều thế hệ người Việt còn là một lãnh đạo có tầm chiến lược, có chiều sâu nhân văn, luôn đau đáu với vận mệnh đất nước và con người Việt Nam. Từ năm 1976 đến năm 1987, bà đảm nhận vị trí Bộ trưởng Bộ Giáo dục. Lần đầu tiên ngành giáo dục có ngày tôn vinh riêng, ngày 20/11 được chọn làm Ngày Nhà giáo Việt Nam; các danh hiệu như “Nhà giáo nhân dân”, “Nhà giáo ưu tú” được ghi nhận chính thức. Đây không chỉ là chính sách mang tính tri ân, mà còn phản ánh tầm nhìn chiến lược của một người lãnh đạo lấy con người làm trung tâm, coi giáo dục là nền tảng cho sự phát triển bền vững.

Trong cuốn sách “Tấm lòng với đất nước”, bà Nguyễn Thị Bình còn chia sẻ về những trăn trở, suy tư và cả những khoảnh khắc riêng tư trong bối cảnh đất nước bắt đầu vào thời cuộc đổi mới và phát triển.

Ở bài viết “Phó Chủ tịch nước”, bà đã nhắc lại câu chuyện Tổng Bí thư Đỗ Mười đến và báo tin bà được Bộ Chính trị đề cử vào vị trí Phó Chủ tịch nước nhiệm kỳ sau. Năm đó bà 65 tuổi, đã có ý định chuyển vào TP Hồ Chí Minh sống với em trai mình. Kể từ khi tập kết ra Bắc, chiến đấu và công tác, bà đã có 36 năm sống ở Hà Nội, có nghĩa là còn nhiều hơn thời gian bà lớn lên và hoạt động ở miền Nam. Ban đầu, bà từ chối, nhưng rồi lại nghĩ: “Mình có làm gì cũng là vì đất nước, không phải vì mục đích nào khác”. Tinh thần trách nhiệm của một người yêu nước đã cho bà thêm sức khỏe, niềm tin để phụng sự đất nước thêm 10 năm nữa trong 2 nhiệm kỳ Phó Chủ tịch nước.

98 năm tuổi đời, 79 tuổi Đảng và hàng chục năm cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, phụng sự vẹn tròn cho đất nước, với nhiều người Việt Nam, bà Nguyễn Thị Bình là “trăm năm có một”. Lòng họ đã tạc tượng bà như một nữ anh hùng lâu lắm rồi!

Tống Phước Bảo

Nguồn VNCA: https://vnca.cand.com.vn/truyen-thong/tram-nam-co-mot-tac-tuong-long-dan-i780406/