Trạm phẫu tiền phương địa đầu A Lưới - Bài 1: Những ngày ở trạm phẫu tiền phương
HNN - Tháng 4/1972, Đại đội Xe tăng 3 trang bị 8 xe tăng bơi kiểu K63-85 của tôi nhận lệnh hành quân độc lập vào A Lưới. Nhiệm vụ của Đại đội là cùng với các đơn vị bạn làm mũi vu hồi vào phía tây thành Huế khi có thời cơ. Điểm đặc sắc của kế hoạch này là sau khi cơ động theo đường 12 (QL49 bây giờ) đến phà Tuần, Đại đội Xe tăng 3 sẽ thực hành bơi theo sông Hương về Huế để tạo sự bất ngờ cho địch. Nghe về Huế, về sông Hương đã nhiều nên cánh lính trẻ Đại đội Xe tăng 3 háo hức. Theo kế hoạch, đầu tháng 5/1972, chúng tôi sẽ có mặt ở A Lưới sẵn sàng làm nhiệm vụ.
Từ Quảng Bình, chúng tôi phải vượt Trường Sơn sang Lào, đi dọc cao nguyên Nam Lào rồi theo đường B45 về Việt Nam. Đường Trường Sơn về cơ bản là đường quân sự làm gấp, mặt đường hẹp, lắm đèo cao, dốc đứng lại thường xuyên bị không quân Mỹ ngăn chặn nên tốc độ hành quân rất chậm.

BS Phùng đã 86 tuổi vẫn thăm khám sức khỏe miễn phí cho người dân
Năm đó, mùa mưa lại đến sớm hơn nên thời gian chúng tôi nằm chờ thông đường nhiều hơn thời gian cơ động và mãi đến đêm 30/6/1972 chúng tôi mới vượt dốc Mèo để về Việt Nam.
Sau một đêm trầy trật, rạng sáng 1/7/1972, chúng tôi đã vượt được dốc Mèo đến ngã ba 71 - nơi đường B45 và đường 14 Đông Trường Sơn (đường Hồ Chí Minh ngày nay) gặp nhau. Đây đã là điểm đầu của thung lũng A Sầu - A Lưới và chúng tôi gần như đã đến vị trí tập kết mà trên quy định. Trời đã tang tảng sáng nên chúng tôi phải khẩn trương tìm chỗ giấu xe. Thấy một con suối nhỏ chảy ngang đường, trưởng xe chỉ huy cho tôi lùi vào đó. Nhưng khi lùi vào cách đường chừng 10 mét thì xe ì ra. Biết là có sự cố nên tôi tắt máy và nhảy xuống xem thì thấy băng xích bên trái đã bị đứt.
Thấy địa điểm đó chưa được an toàn nên trưởng xe nói phải nối xích ngay để lùi thêm một đoạn nữa. Tôi trèo lên xe, chui vào cửa lái xe moi mấy thứ dụng cụ nối xích như: búa tạ, tống chốt, cáp kéo xích… ra xếp trên mũi xe. Vẫn đứng trong cửa lái xe, tôi vứt từng thứ xuống bãi cát ven suối. Đến lúc tôi vừa quăng cuộn cáp kéo xích xuống thì một chớp lửa bùng lên. Tôi gục xuống và không biết gì nữa. Thật là không may khi cái đích đến A Lưới đã ở ngay trước mắt mà tôi lại bị thương.
Tôi chỉ tỉnh lại khi bị một cú thúc đau nhói ở lưng. Dần dần tôi hình dung ra mình đang lắc lư trên võng. Có vẻ như đường đi xấu tợn bởi những cú va lưng xuống nền đường ngày càng nhiều và tiếng phì phò của những người khiêng. Toàn thân tôi như đã bị tê liệt - nhất là nửa trên nhưng đầu óc thì tỉnh táo dần. Tôi từ từ nhớ lại mọi việc và hiểu rằng lúc mình quăng cuộn cáp kéo xích xuống đã có một cái gì đó nổ và mình đã bị thương. Đáng sợ nhất là tôi thấy hai mắt tối đen và rát bỏng. Trên ngực và cánh tay trái cũng đau buốt, cánh tay trái không cử động được nữa. Nghe chuyện của mấy anh em cáng thương, tôi hiểu là mình đang được đưa vào một trạm phẫu tiền phương.
Ngay khi vào đến trạm phẫu tôi được đưa lên bàn mổ. Đầu tiên, các y, bác sĩ mở băng mắt của tôi ra. Tuy vậy, tôi vẫn không mở mắt ra được vì hai mắt vẫn rát như phải bỏng. Bỗng tôi thấy có ai đó banh mắt tôi ra và một dòng nước mát xối vào đó. Dòng nước làm xối chỗ cát đi nên mắt dễ chịu hẳn, không còn bỏng rát nữa. Đến lúc này lại thấy mọi thứ lóa đi và vẫn không nhìn thấy gì vì chói. Các anh ấy băng mắt lại cho tôi. Tôi gặng hỏi: “Mắt tôi có sao không?” thì một người trả lời: “Phải đợi ba hôm nữa mới biết”. Tôi đau đớn nghĩ: “Chắc hỏng rồi! Thường thì người ta động viên thương binh, chỉ nói tốt hơn lên. Đằng này đã nói như thế là hỏng bét rồi”.
Tiếp đó, tôi thấy người ta tiêm mấy mũi vào cánh tay. Có một người cứ tỉ mẩn hỏi: “Nhà có mấy anh em, quê ở đâu, bố mẹ có khỏe không, học lớp mấy rồi…”. Tôi đang chán nên cứ gióng một trả lời rồi tự nhiên buồn ngủ rũ. Sau này mới biết đó là một thủ thuật của anh em quân y ở đó để thử xem hiệu quả của thuốc “tiền mê” (đây là đội phẫu tiền phương nên chỉ có thuốc tiền mê và thuốc tê, không có gây mê nội khí quản). Họ tiêm xong cứ hỏi như vậy, đến lúc không thấy trả lời thì biết là thuốc đã có hiệu lực.
Tôi thiếp đi trong một giấc ngủ rất sâu bao lâu không biết. Nhưng rồi tôi thấy có cái gì đó rất ngứa ở ngực mình như có ai đó đang dùng một cái que cào cào trên đó. Thế là tôi co tay phải gạt mạnh một phát. Chỉ thấy rộ lên những tiếng loảng xoảng của dụng cụ. Ai đó kêu lên: “Sao nó chóng tỉnh vậy. Tiêm một mũi nữa đi”. Thì ra, lúc đó các bác sĩ đang mày mò lấy mảnh trong ngực tôi, bởi thuốc mê đã giảm tác dụng nên tôi thấy ngứa. Vì chủ quan, trước khi phẫu thuật các bác ấy không trói tay tôi lại nên tôi đã gạt bay cả dụng cụ. Họ tiêm thêm cho tôi một mũi nữa và tôi lại chìm vào giấc ngủ.
Nhờ sức trẻ cộng với sự chăm sóc của các bác sĩ, y tá nên sức khỏe của tôi hồi phục khá nhanh. Sang ngày thứ ba tôi đã được mở băng mắt và nhìn được gần như trước. Đến lúc này tôi mới có dịp tìm hiểu về nơi mình đang ở. Đó là Đội phẫu thuật 4 của Binh trạm 41 thuộc Đoàn 559. Đây là đội phẫu tiền phương được đặt ở gần trọng điểm ngã ba 71 để sơ cứu, cấp cứu thương binh trước khi chuyển về đội điều trị. Vì vậy, quân số của đội chưa đến chục người gồm hai y sĩ, vài y tá, nuôi quân do bác sĩ Nguyễn Văn Phùng làm đội trưởng. Trạm phẫu nằm trên sườn một quả đồi đất đỏ, cây cối rậm rạp ở cách ngã ba 71 không xa (có thể tại địa phận Hồng Vân, A Lưới 1 bây giờ).
Kết hợp cả trí nhớ của mình và ý kiến các y, bác sĩ, tôi kết luận: Mình đã bị thương vì một quả mìn vướng thì phải. Mìn vướng là loại mìn to bằng quả ổi do máy bay Mỹ ném xuống các cung đường nhằm ngăn chặn bộ đội ta. Vì thả từ máy bay xuống nên người ta còn gọi nó là “bom vướng”. Khi nó rơi xuống sẽ tung ra 4 phía 4 sợi dây mảnh như tơ nhện nhưng rất dài khoảng 8 mét. Khi có tác động vào 1 sợi dây bất kỳ thì xung động đó được truyền về và kích cho mìn nổ. Tuy nhiên, chắc là quả mìn này được ném xuống đã lâu, nó đã bị đứt dây và bị đất cát lấp lên trên nên chỉ đến khi tôi tung cuộn cáp kéo xích (khoảng 5 - 6kg) xuống rơi đúng chỗ nó nằm, lực tác động đủ mạnh nó mới nổ. Tôi bị khoảng 5 - 6 mảnh ở ngực, 2 mảnh ở bả vai trái, 1 mảnh ở bả vai phải, mấy mảnh ở mặt - thật may đó là những mảnh nhỏ nhất...