Trân trọng giá trị của hòa bình và độc lập dân tộc
'Chiến tranh là chuyện mất mát, đau thương, nên bác không muốn kể. Ngần này tuổi đầu rồi nên nghĩ lại ký ức có cái nhớ cái quên. Chỉ mong mãi về sau, đất nước hòa bình, không có bom đạn...' - Đó là chia sẻ của một cựu chiến binh (CCB) khi nhắc đến những kỷ niệm của bản thân trong kháng chiến chống Mỹ.
Với mong muốn để thế hệ trẻ thêm hiểu và trân trọng giá trị của hòa bình, độc lập dân tộc, người chiến sĩ năm xưa ấy cũng đồng ý mở cánh cửa ký ức. Từng câu chuyện, hình ảnh chiến trường những năm 70 của thế kỷ XX lần lượt được khắc họa lại rõ như một thước phim quay chậm...
Mặc dù đều đã hơn 70 tuổi, nhưng 3 người CCB thời kỳ chống Mỹ hiện cùng đang sinh sống tại địa bàn phường Him Lam, TP Điện Biên Phủ (tỉnh Điện Biên) vẫn thi thoảng tụ họp để cùng ôn lại kỷ niệm xưa. Ông Tống Văn Thoóng, hiện ở tổ dân phố số 11, chậm rãi bắt đầu câu chuyện của mình: Khi vào Miền Nam chiến đấu, ông thuộc biên chế của Đại đội 9, Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 148, Sư đoàn 316. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, ngay từ đêm 21-4-1975, đại đội của ông được giao nhiệm vụ chốt chặn Quốc lộ 22 nối Sài Gòn với Tây Ninh để ngăn sư đoàn 25 của địch rút chạy từ Tây Ninh về cố thủ tại Củ Chi, cửa ngõ Sài Gòn.
Cấp trên giao cho Đại đội 9 của ông đánh chặn cầu Bàu Lau để ngăn địch rút chạy về Sài Gòn. Nếu không chặn được, thì buộc phải đánh sập cầu để ngăn quân địch. Nhận nhiệm vụ, ông Thoóng cùng đồng đội tăng cường quan sát, hễ cứ thấy xe địch chuẩn bị qua cầu là lại dùng hỏa lực bắn chặn. Cả hướng chỉ có con cầu độc nhất đã bị chốt chặn, xung quanh lại toàn sình lầy, nên địch không thể nào qua được. Chúng cay cú dùng các loại hỏa lực và pháo binh điên cuồng bắn phá cả ngày lẫn đêm.
Hai bên giằng co nhau đến tận ngày 29-4-1975, thì Đại đội 9 được lệnh đánh chiếm giữ cầu. 15 giờ ngày 29-4, đơn vị ông Thoóng bắt đầu tấn công đầu cầu Bàu Lau. Nhấp ngụm nước chè, đưa ánh mắt nhìn xa xăm về phía ngọn đồi phía trước mặt, ông Thoóng tiếp tục câu chuyện của mình với giọng hào hứng: “Lúc đó tôi là tiểu đội trưởng đảm nhiệm tấn công địch ở mũi thứ yếu, do đồng chí Đại đội phó chỉ huy. Địch phản công mạnh, đánh trả rất ác liệt, khiến đồng chí Đại đội phó bị thương, nên tôi được lệnh thay thế chỉ huy. Sau khi tập trung tất cả các loại hỏa lực bắn vào đội hình của địch, bộ binh ta xung phong qua đường, chiếm được một phần bên cầu. Đến 17 giờ, thì ta chiếm được toàn bộ đầu cầu (hướng Sài Gòn) và 1/3 ấp Bàu Lau. Ban đêm, trực thăng của địch liên tục quần lượn từ Sài Gòn về hướng Tây Ninh. 1 giờ đêm, địch tập trung pháo binh và các loại hỏa lực bắn phá ác liệt vào trận địa của ta. Đến 8 giờ sáng, thêm một số đồng đội hy sinh, nhưng đơn vị vẫn giữ vững được đầu cầu. 10 giờ, đơn vị nhận được điện từ trung đoàn với thông tin rằng sư đoàn 25 ngụy sẽ mở đường máu trên Quốc lộ 22, tất cả phải chuẩn bị chiến đấu. Nhận lệnh, tất cả chúng tôi đều sẵn sàng vào vị trí, quyết tử chứ không lùi bước. Sau đó, xe tăng và bộ binh địch liên tục đột phá. Hai bên giao tranh đến giữa trưa, thì thấy địch kéo cờ trắng, xin đầu hàng vô điều kiện…”.
Lặng yên lắng nghe người đồng đội kể chuyện, CCB Đỗ Đức Ngọ, ở tổ dân phố số 21, cất lời nối tiếp câu chuyện chiến đấu bằng chất giọng trầm đặc: Khi đó, đơn vị của ông Ngọ tác chiến tại địa bàn Tây Nguyên. Ông thuộc biên chế của Tiểu đoàn 4, Trung đoàn Đặc công 198 (Quân đoàn 3). Sau khi giải phóng Buôn Mê Thuột, khí thế của bộ đội càng thêm hăng hái. Trên đường hành quân hướng về giải phóng Sài Gòn, có tầng tầng, lớp lớp các đơn vị, bộ binh, pháo binh, xe tăng... Đặc biệt, nhiều chiến sĩ của ta dù bị thương nhẹ vẫn nhất quyết ra trận. Trên đường hành quân, các đơn vị gặp nhau, bộ đội ta mừng vui rối rít. Người dân ủng hộ, giúp đỡ bộ đội rất nhiệt tình giúp đưa đò, dẫn đường, đưa cơm, gạo, khí thế sôi nổi, dồn dập.
Hành quân về gần đến Sài Gòn, thì đơn vị ông Ngọ nhận nhiệm vụ đánh chiếm mở cửa đầu cầu 2 cầu phía Tây Bắc Sài Gòn là cầu Bông và cầu Sáng. Lúc đó, ông Ngọ là Trung đội phó Trung đội trinh sát, trực tiếp tham gia đánh cầu Sáng. Cầu Sáng là một trong các cây cầu được xây dựng kiên cố, có lực lượng chốt giữ ở hai bên với lô cốt kiên cố, hỏa lực mạnh, các hàng rào thép gai bao quanh mố cầu và địch tổ chức canh gác, tuần tra nghiêm ngặt 24/24h.
Để chuẩn bị cho trận đánh, ông Ngọ cùng các đồng đội bí mật tiếp cận, cắt rào chui vào, dùng lối đánh “cường tập”, phá từng lớp hàng rào. Do lực lượng địch đông, lại được trang bị hỏa lực mạnh, nên đồng đội của ông bị thương vong nhiều. Nhận lệnh của trên, ông Ngọ tổ chức tập hợp lực lượng còn lại và trực tiếp chỉ huy trên cương vị là đại đội trưởng với quyết tâm mãnh liệt, tiếp tục đánh cường tập, chiếm bằng được cầu Sáng. Giằng co với địch từ lúc 5 giờ 30 phút đến 8 giờ 30 phút, thì đơn vị của ông cũng chiếm được cầu Sáng. Sau khi chiếm được cầu, đơn vị ông Ngọ tổ chức chốt giữ cầu để các đơn vị của ta vượt qua, tiến vào giải phóng Sài Gòn.
Trong khi các đồng đội hừng hực khí thế xông pha trận chiến cuối cùng giải phóng hoàn toàn miền Nam, thì thời điểm ấy, ông Hà Minh Lợi, tổ dân phố số 11 cũng đang trải qua những ngày gian khó, ác liệt tại tỉnh Xiêng Khoảng (Lào). Ông Lợi kể lại: Tháng 9-1970, đơn vị ông nhận lệnh sang Xiêng Khoảng, biên chế thuộc Tiểu đoàn 4 của Binh trạm 13, Cục Vận tải (Tổng cục Hậu cần) làm nhiệm vụ chính là đảm bảo tuyến đường phục vụ hậu cần cho Quân khu Xiêng Khoảng.
Ở Việt Nam, ngày 27-1-1973 ký Hiệp định Paris, nhưng bên Lào thì tận ngày 28-2-1973 mới ký Hiệp định Viêng Chăn. Sau khi hiệp định được ký, đơn vị của ông Lợi vẫn duy trì ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu, hỗ trợ cho bạn đấu tranh thực hiện thắng lợi hiệp định. Trước đó, hằng ngày không quân của địch vẫn liên tục hoạt động, chúng đánh dồn dập cả ngày lẫn đêm bằng tất cả các loại máy bay. Cùng với đó, xen lẫn với bom đạn là các loại truyền đơn viết bằng tiếng Lào và tiếng Việt. Bất chấp bom, đạn, ông Lợi và các đồng đội của mình vẫn bám dân, bám đất, thông đường đưa hàng về phía trước cho mặt trận. Bỗng giọng ông Lợi như chùng xuống: “Ấn tượng khó quên nhất là khu vực ngã ba Noọng Pẹt, ngay từ buổi sáng cũng không nhìn thấy chút màu xanh nào hết, chỉ duy nhất một màu đất đỏ lừ được xới lên bởi bom đạn. Cứ chiều tối là địch ném bom khiến mặt đường lỗ chỗ, lồi lõm. Không dừng lại ở đó, sau các trận bom phá, địch tiếp tục rải bom vướng nổ, rồi bom từ trường và cuối cùng thì bắn phá thêm một đợt nữa. Ban đêm, ngay khi dứt các loạt bom, chúng tôi dàn lực lượng ra, lần lượt giải quyết từng loại bom, rồi tìm cách lấp hố. Mới sáng sớm, là máy bay địch đã bu đến thay nhau trút bom. Tuy là lực lượng phục vụ chiến đấu và chiến đấu khi địch đánh lấn, nhưng đơn vị tôi hy sinh rất nhiều. Nhiệm vụ của mình ở đấy thì chạy đi đâu bây giờ, nó đến ném bom thì mình ẩn nấp... Dù không được trực tiếp tham gia giải phóng miền Nam, nhưng chúng tôi đã góp sức đánh đuổi quân Mỹ và xây dựng sự nghiệp cách mạng chung của Đông Dương”.
Dừng lại vài giây, ông Lợi nghẹn ngào xúc động: “Chiều 30-4-1975, nhiều anh em bảo nhau, không biết ở nước mình giờ ra sao và miền Nam như thế nào rồi. Khi mở đài, nghe được tin chiến thắng, chúng tôi chỉ biết ôm lấy gốc cây, lặng đi không nói được câu nào. Một lúc sau mới cùng nhau hò reo sung sướng”. Ông Hà Minh Lợi cũng tâm sự: “Chúng tôi nhảy lên reo hò khi nghe tin chiến thắng, nhưng rồi lại nhớ đồng đội mình mất trước giờ giải phóng mà xót xa. Chiến tranh kết thúc rồi, đêm đồng đội nằm kể chuyện với nhau, thằng bảo về đi cày, thằng đi học, nhưng buồn vì nhiều anh em, bạn bè đã nằm xuống đất lạ, không còn trở về với gia đình, quê hương, với giảng đường được nữa...”.
Chiến tranh đã lùi xa, đất nước ta ngày càng phát triển. Ký ức chiến tranh nhiều đau buồn, chính người trong cuộc không muốn kể lại, nhưng những cống hiến, hy sinh đó vẫn cần được khắc ghi, bởi cuộc sống tự do, bình yên mà chúng ta đang sống là thành quả từ xương máu của bao thế hệ đi trước.
Bài và ảnh: HÀ KHÁNH - CTV