Tranh luận vụ tòa tuyên hợp đồng hứa thưởng giữa luật sư và khách hàng vô hiệu
Các luật sư có quan điểm khác nhau trong vụ tòa tuyên hợp đồng hứa thưởng giữa luật sư và khách hàng vô hiệu...
Như PLO đã thông tin, TAND Cấp cao tại TP.HCM (nay là Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM) từng ban hành Quyết định giám đốc thẩm số 271/2024/DS-GĐT, xác định hợp đồng hứa thưởng giữa Văn phòng Luật sư (VPLS) và khách hàng vô hiệu. Đồng thời, Quyết định giám đốc thẩm cũng tuyên hủy hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm để xét xử lại.
Quyết định giám đốc thẩm này nhận được nhiều lượt bình chọn làm nguồn phát triển án lệ.
Tháng 9 vừa qua, TAND Khu vực 6 - tỉnh Đồng Nai đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm lại và tuyên hợp đồng hứa thưởng giữa VPLS và khách hàng vô hiệu. Bản án sơ thẩm đã bị kháng cáo để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
Hiện có hai luồng quan điểm trái chiều về vụ việc. Quan điểm thứ nhất đồng tình với lập luận của Tòa cho rằng hợp đồng hứa thưởng vi phạm điều cấm của luật nên vô hiệu. Ở chiều ngược lại, nhiều người cũng có những góc nhìn khác.
Vô hiệu vì không ký hợp đồng dịch vụ pháp lý
Luật sư Nguyễn Văn Dũ, Đoàn Luật sư TP.HCM, cho rằng theo quy định của Luật LS, văn bản hướng dẫn thi hành và Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp LS Việt Nam (Bộ quy tắc), khi cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng (không liên quan trợ giúp pháp lý, án chỉ định), tổ chức hành nghề LS bắt buộc phải ký hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng.
Các văn bản pháp luật không cho phép tổ chức hành nghề LS ký hợp đồng hứa thưởng thay thế cho hợp đồng dịch vụ pháp lý hoặc ký hợp đồng hứa thưởng cùng tồn tại với hợp đồng dịch vụ pháp lý. Hợp đồng hứa thưởng chỉ có hiệu lực với một số trường hợp như: Cá nhân nhận ủy quyền thực hiện công việc dân sự, tố tụng, hành chính, không có hiệu lực với LS và tổ chức hành nghề LS.
Do đó, trong vụ việc này, VPLS không ký hợp đồng dịch vụ pháp lý với vợ chồng ông Q và bà D mà ký một loại hợp đồng khác (hợp đồng hứa thưởng) là đã vi phạm pháp luật ngay từ đầu. Đây là căn cứ dẫn đến hợp đồng hứa thưởng vô hiệu.

Tranh luận vụ tòa tuyên hợp đồng hứa thưởng giữa luật sư và khách hàng vô hiệu. Ảnh minh họa: AI
Hơn nữa, không có căn cứ để cho rằng hợp đồng hứa thưởng là khoản nhận thêm ngoài hợp đồng dịch vụ pháp lý hoặc do LS gợi ý, đặt điều kiện để vợ chồng ông Q và bà D tặng cho tài sản. Vì điểm đ khoản 1 Điều 9 Luật LS chỉ quy định nghiêm cấm LS nhận, đòi hỏi thêm bất kỳ một khoản tiền, lợi ích nào khác từ khách hàng ngoài khoản thù lao và chi phí đã thỏa thuận.
Do vậy, quan điểm xác định hợp đồng hứa thưởng giữa VPLS với vợ chồng ông Q và bà D vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật là có cơ sở. Tuy nhiên, quan điểm cho rằng hợp đồng vô hiệu do vi phạm điểm đ khoản 1 Điều 9 Luật LS và tại quy tắc số 9.2 Bộ quy tắc là không phù hợp.
Chia tỉ lệ % cho luật sư bản chất là thù lao?
LS Nguyễn Văn Đỉnh, Đoàn LS TP Hà Nội, thì lại không đồng tình với quan điểm trong Quyết định giám đốc thẩm 271/2024/DS-GĐT của TAND Cấp cao tại TP.HCM.
Bởi lẽ, điểm đ khoản 1 Điều 9 Luật LS và quy tắc số 9.2 Bộ quy tắc không có nội dung nào nêu rõ cấm LS không được đưa điều khoản hứa thưởng vào hợp đồng dịch vụ. Hứa thưởng chỉ là cách nói nôm na, ở đây bản chất không phải hứa thưởng mà là một điều khoản thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ (có tính chất dân sự).
Về bản chất, điểm đ khoản 1 Điều 9 Luật LS cấm LS "vòi" thêm tiền, lợi ích ngoài khoản thù lao và chi phí đã thỏa thuận với khách hàng trong hợp đồng nhưng trong vụ án này việc khách hàng trả 20% số tiền bồi thường nhận được cho LS chính là thù lao của LS đã thỏa thuận với khách hàng (Điều 55 Luật LS cho phép thỏa thuận thù lao theo %).
LS cho biết, thực tế, xảy ra nhiều trường hợp khách hàng bị thu hồi đất, đa phần họ là nông dân, người lao động, thuộc đối tượng yếu thế. Họ không có tiền để trả thù lao cho LS từ đầu; cạnh đó là tâm lý tự ti, lo sợ thiệt đơn thiệt kép, vừa mất tiền cho LS vừa không thay đổi được tình hình.
Trường hợp này khách hàng thường gợi ý LS bỏ chi phí, công sức làm; khi có kết quả sẽ chia tỉ lệ % cho LS. Đây là thực tiễn nghề nghiệp, cuộc sống. Do đó, việc chia tỉ lệ % cho LS thực chất là thù lao công việc.
Nếu tổ chức hành nghề LS ký hợp đồng dịch vụ pháp lý như bình thường, có điều khoản thanh toán thù lao theo tỉ lệ % thì không thể tuyên hợp đồng vô hiệu.
Thế nào là vi phạm điều cấm?
Luật sư Trương Anh Tú, Đoàn Luật sư TP Hà Nội, cho biết "chìa khóa" của vụ án không nằm ở con số hứa thưởng 20%, mà nằm ở cách hiểu khái niệm “vi phạm điều cấm của luật” để vô hiệu hóa một giao dịch dân sự.
Ủy ban Thẩm phán TAND Cấp cao tại TP.HCM cho rằng Luật LS và Bộ quy tắc không cho phép luật sư thỏa thuận thù lao theo tỷ lệ phần trăm, từ đó coi hợp đồng hứa thưởng giữa luật sư và khách hàng là giao dịch vi phạm điều cấm và vô hiệu theo Điều 117 và Điều 123 Bộ luật Dân sự 2015.
Tuy nhiên, cách lập luận này đã đặt các quy phạm thuộc những tầng pháp lý khác nhau vào cùng một mặt bằng đánh giá, khi đồng nhất điều cấm của luật dân sự với quy định quản lý hành nghề và chuẩn mực đạo đức, kỷ luật nghề nghiệp.
Ông Tú cho rằng theo Điều 123 BLDS, một giao dịch chỉ bị vô hiệu khi trực tiếp vi phạm một điều cấm cụ thể của luật, tức là những quy phạm mang tính cấm đoán rõ ràng và áp dụng chung cho mọi chủ thể trong xã hội. Trong khi đó, Luật LS chỉ cấm LS “nhận hoặc đòi hỏi lợi ích ngoài thù lao và chi phí đã thỏa thuận”, chứ không phủ nhận hiệu lực của thỏa thuận thù lao được xác lập ngay từ đầu theo kết quả công việc.
Trong vụ việc này, tỷ lệ 20% không phải là lợi ích phát sinh ngoài hợp đồng, mà chính là nội dung cốt lõi của thỏa thuận dân sự đã được các bên xác lập một cách minh thị từ trước. Về bản chất, Bộ quy tắc là công cụ điều chỉnh hành vi hành nghề và xử lý kỷ luật nội bộ, không phải là nguồn để xác định hiệu lực hay vô hiệu của một giao dịch dân sự giữa các chủ thể bình đẳng.
"Vì vậy, việc coi hợp đồng hứa thưởng giữa LS và khách hàng là giao dịch vi phạm điều cấm và phát triển thành án lệ vào thời điểm này là quá sớm và tiềm ẩn nhiều hệ quả tiêu cực, không chỉ cho nghề luật, mà cho chính nguyên lý cam kết dân sự và tính dự đoán của pháp luật", LS Trương Anh Tú nêu quan điểm.
Tóm tắt nội dung vụ án
Vợ chồng ông Q, bà D bị thu hồi đất và được bồi thường 4,1 tỉ đồng. Không đồng ý mức này, họ ký hợp đồng hứa thưởng với VPLS L; cam kết trả 20% số tiền bồi thường tăng thêm, tương đương 1,44 tỉ đồng.
VPLS L đã tư vấn, soạn và gửi đơn khiếu nại. Sau đó, ông Q, bà D được UBND huyện X hỗ trợ tăng thêm 7,2 tỉ đồng. Tuy nhiên, họ không thông báo cho VPLS L và từ chối thanh toán 1,44 tỉ đồng, với lý do đã rút lại tất cả các đơn khiếu nại của VPLS L và đề nghị chấm dứt ủy quyền, chấm dứt hợp đồng hứa thưởng với VPLS L...
VPLS L khởi kiện yêu cầu thanh toán.
Tòa án sơ thẩm và phúc thẩm tuyên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc ông Q, bà D trả VPLS L 1,44 tỉ đồng, với nhận định hợp đồng hứa thưởng không vi phạm pháp luật và đạo đức nghề nghiệp.
Tháng 7-2024, Chánh án TAND Cấp cao tại TP.HCM kháng nghị giám đốc thẩm. Ủy ban Thẩm phán TAND Cấp cao nhận định: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 9 Luật LS và Quy tắc 9.2 Bộ quy tắc thì LS không được ký hợp đồng hứa thưởng với khách hàng. Việc VPLS L ký hợp đồng này là vi phạm điều cấm của pháp luật. Theo Điều 117 và Điều 123 BLDS, hợp đồng hứa thưởng này vô hiệu tại thời điểm ký kết.
TAND Cấp cao tại TP.HCM đã chấp nhận kháng nghị, tuyên hủy toàn bộ bản án sơ thẩm và phúc thẩm để xét xử lại, nhằm đảm bảo áp dụng pháp luật chính xác.













