Trẻ đã ngừng phát triển chiều cao là xương đã trưởng thành?
Nhiều phụ huynh nghĩ rằng khi trẻ đã ngừng cao thêm thì hệ xương cũng đã hoàn thiện, nhưng thực tế xương vẫn tiếp tục 'lớn lên' theo cách của nó. Chế độ nuôi dưỡng đúng cách giúp tối ưu mật độ xương để phòng nguy cơ loãng xương sau này.
Thiếu dinh dưỡng làm chậm tăng trưởng chiều cao
Một học sinh nam 17 tuổi (đang học lớp 11) tới Viện Dinh dưỡng để khám vì gia đình lo lắng bạn bè cùng lứa đã cao rõ rệt, còn em "gần như đứng chiều cao". Em chỉ tăng 1-2 cm trong năm vừa qua. Hiện tại, em cao 162,3cm và nặng 50,1kg.
Qua khai thác, chúng tôi được biết em bắt đầu dậy thì từ giữa lớp 7 (13 tuổi) và tăng trưởng chiều cao nhanh trong khoảng 1,5 năm (từ lớp 7 đến lớp 9), sau đó chậm lại và gần như ngừng hẳn trong năm vừa qua.

Trẻ ngừng phát triển chiều cao là xương đã trưởng thành?
Em thường xuyên bỏ bữa sáng, bữa trưa ăn bán trú ở trường, bữa tối thì lại thất thường tùy thuộc lịch học thêm. Chế độ ăn hàng ngày chủ yếu ăn thịt cá nạc, ít thực phẩm giàu canxi. Em thường ngủ muộn (0–1 giờ sáng) vì học bài và dùng điện thoại. Em rất hạn chế hoạt động thể chất, hầu như chỉ ngồi học và xem máy tính, đi học bằng xe đạp điện. Qua thăm khám, chúng tôi nhận thấy chỉ số BMI thấp, cơ tay và cơ đùi mềm nhão; da xanh; lịch sử phát triển chiều cao của trẻ cho thấy tốc độ tăng chiều cao giảm mạnh từ 15–16 tuổi.
Mật độ xương cao là yếu tố then chốt giúp bộ xương chắc khỏe, giảm nguy cơ loãng xương và gãy xương về sau. Sự trưởng thành của xương trải qua 2 giai đoạn chính. Giai đoạn trẻ tăng trưởng chiều dài (tuổi teen, tiền và trong dậy thì), xương phát triển nhanh về chiều dài, nhưng mật độ khoáng có thể thiếu hụt do quá trình tích lũy không theo kịp tốc độ phát triển, khiến giai đoạn này trẻ dễ thiếu hụt mật độ xương.
Những trẻ có dậy thì muộn (do yếu tố di truyền hoặc nội tiết) có mật độ xương thấp hơn so với nhóm dậy thì đúng hoặc sớm, do đó có nguy cơ gãy xương cao về sau. Sự tăng trưởng chiều cao đạt đỉnh khoảng 10-14 tuổi với nữ và 12-16 tuổi với nam, nhưng mật độ xương đỉnh chỉ đạt cao nhất sau giai đoạn này vài năm.
Chế độ ăn thiếu canxi, vitamin D hoặc thiếu vận động thể chất sẽ làm giảm khả năng tích lũy khoáng chất lên xương, làm tăng nguy cơ gãy xương do loãng xương sau tuổi 50. Giai đoạn sau dậy thì (18–25 tuổi) là giai đoạn cơ thể đạt mật độ xương cao nhất (mật độ xương đỉnh). Đây là giai đoạn cơ thể hoàn thiện 90–95% tổng mật độ xương.
Các nghiên cứu đã cho thấy mật độ xương đỉnh của vùng cột sống thường đạt vào độ tuổi 20–29 với nữ và 21–25 với nam. Sau tuổi 30, mật độ xương bắt đầu giảm, với tốc độ trung bình giảm từ 0,3–1,1% mỗi năm trước mãn kinh và giảm nhanh ở mức 1,5–3,5%/năm sau mãn kinh ở nữ, mức độ này ở nam thấp hơn (0,7%). Nếu mật độ xương đỉnh thấp, nguy cơ loãng xương và gãy xương hông, xương sống ở tuổi già tăng cao.
Trở lại với trường hợp nêu trên, bác sĩ đã đưa ra chẩn đoán: Chậm tăng trưởng chiều cao do thiếu dinh dưỡng và lối sống không phù hợp tuổi dậy thì; Thiếu vi chất (vitamin D, kẽm, sắt); Hoạt động thể lực thấp, giấc ngủ kém, ảnh hưởng hormone tăng trưởng (GH).
Bạn học sinh được tư vấn chế độ ăn đủ protein từ thịt, cá, trứng, sữa, đậu…; bổ sung vitamin D, kẽm, sắt; tăng canxi (800–1200 mg/ngày) từ thực phẩm; Ngủ sớm trước 23h, ngủ tối thiểu 8 tiếng/đêm để tối ưu tiết GH. Đồng thời, bạn này cần vận động 45–60 phút/ngày bằng các hình thức như chạy, đá bóng, bơi, tập sức mạnh nhẹ; hạn chế đồ uống ngọt và đồ chiên rán bán sẵn ở hàng quán. Em được dặn theo dõi tiến triển chiều cao mỗi 3 tháng.
Chế độ ăn để tăng cường mật độ xương cần lưu ý
Canxi là nền tảng của mật độ xương. Canxi chiếm tới 99% tổng lượng canxi của cơ thể, chủ yếu nằm trong xương và răng, là khoáng chất không thể thay thế để tạo xương. Thanh thiếu niên và người trưởng thành trẻ tuổi cần trung bình 1000–1200 mg canxi mỗi ngày. Nguồn canxi tốt bao gồm sữa và các sản phẩm từ sữa (200–300 mg/100 ml sữa), cá nhỏ ăn cả xương như cá cơm, cá mòi (150–300 mg/100 g), đậu phụ (250–300 mg/100 g), rau lá xanh đậm như rau ngót, cải xoăn, cải bó xôi (100–150 mg/100 g). Nên ăn canxi đều trong ngày thay vì tập trung vào 1-2 bữa để tối ưu sự hấp thu.

Nguồn canxi tốt bao gồm sữa và các sản phẩm từ sữa (200–300 mg/100 ml sữa).
Vitamin D là chìa khóa mở cánh cửa hấp thu canxi. Dù khẩu phần giàu canxi đến đâu nhưng thiếu vitamin D thì cơ thể vẫn không hấp thu được đầy đủ. Vitamin D giúp tăng hấp thu canxi tại ruột và gắn canxi vào khung xương. Người sau dậy thì cần khoảng 800 IU vitamin D mỗi ngày. Nguồn vitamin D chủ yếu đến từ ánh nắng mặt trời, với thời gian tắm nắng hợp lý khoảng 10–15 phút/ngày vào sáng sớm hoặc cuối chiều. Thực phẩm giàu vitamin D gồm cá hồi, cá thu, lòng đỏ trứng, sữa bổ sung vi chất.
Protein là vật liệu xây dựng mô xương. Protein chiếm gần 50% thể tích và 30% trọng lượng của xương, là nền tảng để tạo collagen – khung nâng đỡ cho khoáng chất bám vào. Một khẩu phần protein đầy đủ (1–1,2 g/kg cân nặng/ngày) từ thịt nạc, cá, trứng, sữa, các loại đậu đỗ sẽ giúp cải thiện tốc độ tạo xương. Ngược lại, ăn quá nhiều protein động vật kèm hàm lượng muối cao có thể làm tăng thải canxi qua nước tiểu.
Magie, kẽm, phốt pho và vitamin K2 cũng giữ vai trò không nhỏ trong việc duy trì chất lượng xương. Magie giúp ổn định cấu trúc xương; kẽm thúc đẩy quá trình tạo xương mới; vitamin K2 giúp canxi được dẫn đúng vị trí vào xương thay vì lắng đọng ở mạch máu. Một chế độ ăn đa dạng với ngũ cốc nguyên hạt, rau xanh, trứng, thịt và các sản phẩm lên men sẽ giúp bổ sung các vi chất này.
Caffeine, nước ngọt có ga, ăn quá mặn, hút thuốc lá và uống rượu bia đều làm giảm hấp thu hoặc tăng đào thải canxi. Ngồi nhiều, ít vận động cũng khiến mật độ xương giảm dần. Các hoạt động như đi bộ nhanh, chạy bộ, nhảy dây và tập sức mạnh cơ là điều kiện bắt buộc để canxi được "khóa" vào xương bền vững.
Tóm lại, tuy sau giai đoạn dậy thì, tốc độ phát triển chiều dài của xương đã rất chậm hoặc ngừng tăng, xương vẫn cần được tiếp tục bồi đắp mật độ để giảm nguy cơ loãng xương và gãy xương trong tương lai.












