Trên đất Kẻ Đầm

Nằm ở phía Tây Nam huyện Nông Cống, vùng đất Thăng Thọ còn được biết đến với tên gọi cổ là Kẻ Đầm. Từ đất cằn hoang rậm, những thế hệ người dân cần lao đã biến nơi đây trở thành làng quê trù phú.

Di tích lịch sử từ đường họ Bùi Hữu ở làng Thọ Thượng.

Cho đến ngày nay, Kẻ Đầm được biết đến là tên gọi cổ xưa nhất của vùng đất Thăng Thọ. Vào thời Lý - Trần, nơi đây vẫn là chốn hoang rậm, chưa có làng mạc. Đến thời Lê một nhóm người khi đến đất Nông Cống, qua Kẻ Đầm đã dừng lại lập làng, gây dựng cơ nghiệp và đặt tên cho làng là Sa Vỹ (nay là thôn Thọ Thượng). Tuy nhiên sau đó, vì những biến cố xảy đến khiến người dân phiêu tán.

Đến đầu thế kỷ XVIII, ông tổ của dòng họ Bùi Hữu từ đất Nghệ An ra Thanh Hóa đi tìm chốn lập nghiệp, khi vào đến Kẻ Đầm thấy nơi đây dẫu còn hoang sơ nhưng cảnh vật tốt tươi, chim chóc hoan ca nên đã quyết định dừng lại khai khẩn đất đai. Chẳng mấy chốc, dưới bàn tay người đã thành đồng ruộng. Sau họ Bùi Hữu, những dòng họ khác cũng tìm về Kẻ Đầm mỗi ngày thêm đông, cùng nhau đoàn kết dựng xây xóm làng. Ngày nay, Thăng Thọ bao gồm 3 thôn (làng): Thọ Thượng, Thọ Khang và Thọ Đông. Trong đó, Thọ Thượng được coi là làng “gốc” của đất Thăng Thọ, có người đến cư ngụ sớm hơn cả.

Theo ghi chép và truyền ngôn, Thọ Thượng còn được biết đến với các tên gọi như Thượng Văn, Thượng Vặn, Ngọc Đảm... Từ những thế hệ đầu tiên đến Thọ Thượng khai phá đất đai lập nên xóm làng, đến nay trên đất Thọ Thượng vẫn còn lưu giữ tên gọi những xứ đồng trong buổi đầu lập làng. Là đồng Nấp, đồng Trại, đồng Mờn, đồng Lạn, Thanh Yên, Bút Mực...

Trải qua gần 4 thế kỷ, kể từ khi dòng họ Bùi Hữu đến lập làng, ngày nay ở Thọ Thượng có đến hơn 40 dòng họ cùng nhau sinh sống. Làng Thọ Thượng mang nét đẹp tiêu biểu của những làng quê ở Nông Cống với những vườn kè bát ngát - chốn tìm về của chim cò trong những buổi chiều tà. Người già trong làng kể lại, chỉ vài thập kỷ về trước lá kè vẫn là vật liệu quan trọng để người dân lợp mái nhà. Thấp thoáng giữa làng có cây đa cổ thụ soi bóng bên giếng nước trong vắt (người trong làng thường gọi là giếng đa). Từ trục đường chính vào làng là những xóm nhỏ như Thượng Bắc, Thượng Trung, Thượng Nam và Thượng Bình.

Và cũng như nhiều làng quê Việt truyền thống, ở Thọ Thượng trước đây có sự hiện hữu của nhiều công trình kiến trúc tâm linh như chùa thờ Phật (chùa Thượng Cát), đình thờ Thành hoàng, miếu bà Nương Nương, điếm canh (nơi tập hợp nam thanh niên trong làng để luân phiên nhau tuần tra, bảo vệ làng)...

Ở Thọ Thượng, hậu duệ của dòng họ Bùi Hữu là Bùi Hữu Hiếu - một trong những nhân vật lịch sử ở cuối thế kỷ XVIII. Ông theo vua Quang Trung ra Bắc đánh tan quân Thanh, về sau còn lập được nhiều công trạng hiển hách, làm đến chức Đô đốc phó tướng, làm rạng danh không chỉ dòng họ Bùi Hữu mà còn cả vùng đất Thượng Thọ. Ngày nay, trên đất làng Thọ Thượng, Di tích lịch sử từ đường và lăng mộ họ Bùi Hữu như sự nhắc nhớ hậu thế về công lao của một dòng họ lớn với quá trình khai phá, lập làng và làm rạng danh vùng đất.

Trên đất Thọ Thượng, bên cạnh nghề nông thì nghề mộc đã có lịch sử phát triển cả trăm năm. Nghề mộc ở thôn Thượng Văn (tức làng Thọ Thượng) đã được UBND tỉnh công nhận nghề truyền thống năm 2015.

Lập dựng muộn hơn Thọ Thượng là làng Thọ Khang. Làng nằm ở phía Đông Bắc xã Thăng Thọ. Nơi này cũng được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như làng Ngà, làng Bù, Phú Thọ, Khang Ninh... Ở Thọ Khang có nhiều xứ đồng lớn với tên gọi cổ xưa như Đồng Giếng, Mã Ba, Bái Trang, Đồng Vằng, Mã Xấn, Cồn Kẻn, Đồng Chua... Ở Thọ Khang trước đây có ngôi chùa Bình Vôi. Đáng tiếc, trải qua thời gian, vì nhiều nguyên do, đến nay chùa chỉ còn được nhắc nhớ trong chuyện kể của các bậc cao niên.

Thọ Đông nằm ở phía Đông đất Kẻ Đầm. Ngoài tên Thọ Đông thì trải qua quá trình lập dựng và phát triển, làng còn có tên ấp Bù, làng Bù, Thượng Du Đông. Ở Thọ Đông khi xưa có đầy đủ các công trình kiến trúc văn hóa gắn liền với đời sống tín ngưỡng của người dân địa phương như chùa Đông Thôn, đình Phúc, nghè.

Trải qua thời gian với nhiều biến động lịch sử, một số công trình kiến trúc văn hóa ở Thăng Thọ chỉ còn dấu tích được nhắc nhớ trong chuyện kể của người có tuổi. Những năm qua, nhờ sự chung sức, đồng lòng của người dân, một số công trình kiến trúc gắn liền với đời sống tín ngưỡng, tâm linh của người dân đang từng bước được tôn tạo... Nhìn lại lịch sử phát triển quê hương, từ vùng đất hoang vu, lau lách um tùm, dân cư thưa thớt, qua thời gian nhờ bàn tay, khối óc, sự chăm chỉ không ngừng nỗ lực vươn lên của những thế hệ người dân địa phương, Thăng Thọ hôm nay đã và đang từng bước đổi thay cả về diện mạo làng quê và đời sống người dân.

Bài và ảnh: Khánh Lộc

Nguồn Thanh Hóa: http://baothanhhoa.vn/tren-dat-ke-dam-252785.htm