Tri ân và đồng vọng

Trong âm vọng tháng Bảy, tôi nghĩ về những người đã ngã xuống. Họ - những liệt sĩ có tên và chưa có tên.

Nghĩa trang liệt sĩ Điện Biên Phủ có 4 ngôi mộ có tên và 640 phần mộ chưa có tên. Ảnh: Bình Thanh

Nghĩa trang liệt sĩ Điện Biên Phủ có 4 ngôi mộ có tên và 640 phần mộ chưa có tên. Ảnh: Bình Thanh

Họ - những chàng trai, cô gái tuổi 18, 20 mãi mãi nằm lại và là những ngôi sao rạng ngời. Họ hy sinh theo đội hình đánh giặc giờ về nằm cùng nhau trong nghĩa trang cũng theo đội hình hàng dọc. Tôi bỗng nhớ đến những câu thơ thổn thức từ đáy lòng mình của nhà thơ Nguyễn Hữu Quý trong bài “Khát vọng Trường Sơn”:

“Mười nghìn tấm bia, còn mười nghìn nữa

Mười nghìn đồng đội nằm rải Trường Sơn

Mười nghìn hài cốt chưa về khói hương”.

Những ngày tháng Bảy ngước nhìn vòm trời trong xanh đến ráo hoảnh tôi bất chợt nhận ra những đám mây bềnh bồng kỳ lạ. Đó là các đụn mây xếp thành bông cúc trắng bỗng chốc tan thành hình người chiến sĩ đang ôm súng xung phong và hắt lên phản quang những sắc cầu vồng, nhịp cầu như đường bay đạn pháo. Tôi lại nghĩ về các anh, những người đã nằm trong lòng đất, hòa vào máu thịt đất đai Tổ quốc và luôn ngời sáng. Cầu vồng bắc sang hy vọng là sắc độ thẩm thấu giữa con người hòa mình với thiên nhiên. Đó là một tượng đài thật đẹp và bi tráng, hào hùng mà kiêu hãnh.

Tháng Bảy là tháng của tri ân và đồng vọng. Tri ân những người đã ngã xuống vì Tổ quốc và đồng vọng với những người còn sống hôm nay phải làm gì để xứng đáng với sự hy sinh của các anh hùng liệt sĩ. Nhà thơ Nguyễn Thái Sơn đã có một tứ thơ khá xúc động trong bài “Thăm mộ chiều cuối năm” với một ứng xử nhân văn cao cả. Bài thơ tứ tuyệt chỉ bốn câu ngắn gọn mà tỏa bao vòng sóng âm thanh như một khúc ca bất diệt:

“Vạt đồi yên nghỉ bao đồng đội

Nhang cầm một thẻ biết làm sao”.

Bỗng xuất hiện một động thái ân tình biết bao: “Thắp hương đành cắm nơi đầu gió” để cho hương trầm chia đều đến từng ngôi mộ: “Hương khói đừng quên nấm mộ nào”.

Tôi muốn gọi sự đồng vọng ân tình là hợp âm trầm tháng Bảy. Trầm và sâu lắng, trầm và lay thức, trầm và vang vọng. Đi từ Bắc vào Nam ta gặp bao nghĩa trang liệt sĩ. Đó là Nghĩa trang liệt sĩ Điện Biên Phủ có 4 ngôi mộ có tên và 640 phần mộ chưa có tên. Và Nghĩa trang liệt sĩ mặt trận Vị Xuyên với hàng ngàn bia mộ bên sườn núi đá vôi nham nhở còn khét lẹt mùi thuốc súng chưa tan. Qua ngã ba Đồng Lộc là 10 ngôi mộ của 10 trinh nữ thanh niên xung phong như mười phím đàn rung đến cõi lòng sâu thẳm. Và “Hang tám cô” ở Quảng Bình bị bom Mỹ đánh sập chặn lối cửa hang như một hộp đàn giữ, nén lại bao âm thanh nghẹn thắt để từ đó âm vang một cung trầm day dứt khôn nguôi. Và có một “Huyền thoại Truông Bồn” những thanh niên xung phong hy sinh khi mà chỉ còn vài giờ nữa sẽ đến mốc thời gian 0h00 ngày 11/11/1968 giặc Mỹ thực hiện “ném bom hạn chế” trên miền Bắc. Có một điều chung, phần lớn họ là nữ chiến sĩ hy sinh khi tuổi đời còn rất trẻ với những tập thể mang con số cụ thể: Hang 8 cô, 10 cô gái Đồng Lộc và 13 thanh niên xung phong ở ngã ba Truông Bồn. Đó là những điểm nút thắt ác liệt, là tọa độ lửa và cũng là tọa độ của thử thách niềm tin.

Tháng Bảy linh thiêng, tháng Bảy tri ân, tháng Bảy nghĩa tình vọng lên da diết “Bài ca không quên” của nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn: “Có một bài ca không bao giờ quên – Là lời đất nước tôi chẳng phút bình yên”. Một đất nước mang hình dải lụa và cũng là hình ngọn lửa mà Quốc lộ 1A như sợi dây đàn bầu rung lên bao âm vực sâu thẳm, bao nốt trầm xao xuyến. Một đất nước mà bà mẹ Việt Nam, bà mẹ anh hùng: “Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ - Các anh không về mình mẹ lặng im” (Đất nước - Phạm Minh Tuấn). Tôi bồi hồi đứng trước tượng đài mẹ Thứ, những nếp đá gấp hằn lên vết rạn chân chim khóe mắt, mái tóc mẹ tạc vào rạng đỏ cuối chiều, mẹ đã trở thành bất tử hóa thân vào non sông đất nước.

Những ngày tháng Bảy nghĩa tình ta bắt gặp nhiều đoàn cựu chiến binh trở lại chiến trường xưa để đi tìm đồng đội và viếng mộ người đã ngã xuống. Các anh, có người để lại một phần máu thịt, mang trong mình những cơn sốt rét rừng, di chứng chất độc da cam. Tháng Bảy ân tình khi cả nước chung tay góp sức xây những ngôi nhà tình nghĩa, mái nhà giản đơn mà ấm áp biết bao che chở mái tóc của mẹ già bớt gầy, bớt bạc. Ở Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn có bóng cây và lá bồ đề mang hình trái tim vọng lại tiếng chuông ân nghĩa. Tiếng chuông mang lại sự bình yên, tiếng chuông vọng về bao lay thức. Tiếng chuông nơi đây hòa với tiếng chuông từ những ngôi chùa trên quần đảo Trường Sa tạo nên bản hợp âm của một cung trầm tháng Bảy: Tri ân và đồng vọng…

Nhà thơ Nguyễn Ngọc Phú

Nguồn GD&TĐ: https://giaoducthoidai.vn/tri-an-va-dong-vong-post692348.html