Triều Nguyễn đã khơi đào, khai thông sông Đuống như thế nào?
Sông Đuống có chiều dài khoảng 65 km, khởi nguồn là một chi lưu của sông Hồng từ ngã ba Dâu (giữa Long Biên và Đông Anh, Hà Nội) chảy về phía Đông qua địa phận tỉnh Bắc Ninh đổ vào sông Thái Bình ở Lục Đầu.

Sông Đuống là phân lưu của sông Hồng. Nguồn: hanoimoi.
Sông Đuống mang tên Thiên Đức từ đầu thời nhà Lý cho đến ngày nay. Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí sau khi vua Lý Thái Tổ lên ngôi, dời đô từ Hoa Lư ra đóng ở thành Đại La, đã châu Cổ Pháp lên làm phủ Thiên Đức (Bắc Ninh) và đổi sông Bắc Giang làm sông Thiên Đức.
Sông Thiên Đức là một nhánh lưu của sông Nhị Hà (sông Hồng), nên hàng năm lượng nước và phù sa từ sông Nhị Hà chảy vào đây khá lớn khiến cho sông luôn trong tình trạng bị bồi lấp bởi lượng phù sa đổ về. Do đó, mỗi khi mưa lũ dòng chảy bị tắc không lối thoát, nước dâng cao gây ra ngập lụt trên diện rộng khiến đời sống của dân cư dọc bờ sông Thiên Đức gặp không ít khó khăn.
Dưới thời các vua nhà Nguyễn đã tốn biết bao công sức và tiền của để khai thông, trị thủy trên dòng sông này.
Cứ khơi rồi lại bị bồi lấp
Theo chính sử Đại Nam thực lục: vào năm Gia Long thứ 9 (1810), cửa sông Thiên Đức bị ứ lấp, mưa lụt làm hại. Vua Gia Long đã lệnh cho thuê dân phu khơi đào.
Đến ngày 15 tháng 8 năm Minh Mệnh thứ 10 (1829) quan Đê chính Bắc thành Lê Đại Cương tâu: “Bắc thành từ khi có đê đến nay, khơi sông chỉ 1-2 lần, nay trải nhiều năm không bị tắc nghẽn cũng lạ… Huống hồ sông Thiên Đức tắc làm ảnh hưởng đến giao thông của thành đó. Lòng sông ở hạ lưu thì vẫn còn nhưng có nhiều đoạn quanh co, nếu muốn khơi thông có lẽ nên dời cửa sông một đoạn lên phía trên.
Phía dưới thì tùy đoạn mà khơi rộng ra. Đoạn nào quá quanh co, sửa nắn thẳng ra vả lại sông này phía trên phân đôi, lâu dần bị tắc, phải dụng công hơi nhiều. Đoạn dưới 1 dòng, nước sông còn sâu, dụng công không mấy”. (Châu bản triều Nguyễn, Minh Mệnh tập 30, tờ 149).
Về việc này vua Minh Mệnh đã giao cho Đình thần bàn xét kỹ càng rồi tâu lên. Ngày 5 tháng 9 năm 1829, Đình thần đã có tấu:…lần này khai sông Thiên Đức đem lại lợi ích to lớn cho muôn đời sau. Xin ban sắc hạ lệnh cho quan Phó tổng Trấn thành ấy cùng quan Đê chính Lê Đại Cương đến vùng đó xem xét đo đạc thêm.
Đồng thời phái một viên mẫn cán đến tùy nghi thực hiện trong thời gian đó. Cửa sông mở ở chỗ nào. Đoạn nào quá hẹp cần đào cho rộng thêm. Đoạn nào nông tắc cần đào rộng và sâu thêm, đoạn nào quanh co cần khai cho thẳng hết, hai bên bờ sông cần đắp đê ngăn giữ như thế nào, tất cả vẽ thành bản đồ và ước tính tổn phí và công sức. Quan Đê chính thành ấy xem lại thật kỹ rồi làm tập tâu trình rõ. (Châu bản triều Nguyễn, Minh Mệnh tập 33, tờ 42).
Ngày 12 tháng 12 năm Minh Mệnh thứ 10 (1829) Nguyễn Kim Bảng phụng chỉ: … Truyền Tổng trấn Phan Văn Thúy sang đầu xuân cử biền binh hoặc dân phu đến cửa sông (sông Thiên Đức) nơi bị tắc cát để nạo vét cho thông suốt. (Châu bản triều Nguyễn, Minh Mệnh tập 37, tờ 76).

Trang đầu bản phụng chỉ ngày 12 tháng 12 năm Minh Mệnh thứ 10 (1829) của Nguyễn Kim Bảng về việc khai thông sông Thiên Đức. Nguồn: TTLTQG I.
Chính sử Đại Nam thực lục chép: Vua lại bảo Bộ Công rằng: “Cửa sông ấy tuy lấp đã lâu, hãy theo dòng cũ thử đào cho thông cũng không hại. Vậy hạ lệnh cho thành thần chước lượng đào xẻ rộng chừng 5 trượng, sâu đủ dẫn nước thường 2 thước, dài hơn 100 trượng. Tựu trung thước tấc sâu rộng dần dần rút bớt đi, đợi đến lúc nước lên to, thế nước chảy vào, thế tất càng sâu càng rộng thêm ra, như thế há chẳng phải là việc làm một nửa mà công hiệu gấp đôi sao. Đây là việc cốt yếu để củng cố đê điều vậy”.
Mùa xuân, năm Minh Mệnh thứ 11 (1830), Tổng trấn Phan Văn Thúy phụng chỉ xin phái Thống quản Trung quân Lê Văn Quý đốc 1.000 người biền binh thuộc thành tiến hành vét cửa sông Thiên Đức, làm hơn một tháng thì xong. Thưởng cho biền binh 1.300 quan tiền.
Nhưng với lượng phù sa bồi đắp hàng năm rất lớn nên sông Thiên Đức hễ cứ khai rồi lại bị bồi lấp. Vấn đề này làm cho các vua nhà Nguyễn luôn trăn trở. Đại Nam thực lục chép Vua Minh Mệnh bảo rằng: "Việc phòng giữ nước sông ở Bắc Kỳ, trẫm chưa từng một đêm nào là không để bụng, nay thực có thể khai thông thế nước, để cho đê điều bền vững, đời sống của dân được yên ổn lâu dài, dẫu phải tốn trăm vạn, không tính kể đến, nhưng khai đào một phen, quan hệ đến sự lợi hại, không phải là nhỏ, tất phải cân nhắc tính kỹ mới tiện cử hành.
Lần khai thông sông theo dòng mới thời vua Tự Đức
Sau lần khơi thông cửa sông Thiên Đức vào đầu năm 1830, về sau dưới triều vua Thiệu Trị không ít lần vua tôi bàn bạc đến vấn đề này. Song, phần lớn vấn đề chỉ đem ra bàn nhưng hầu như không có hướng giải quyết vẹn toàn.
Sang triều vua Tự Đức, sau nhiều lần bàn bạc để đưa ra giải pháp tốt nhất, hạn chế sức người sức của và đặc biệt mang lại hiệu quả lợi ích lâu dài cho dân chúng, đến tháng 11 năm Mậu Ngọ, Tự Đức năm thứ 11 (1858), vua đã nhất trí với phương án của Nguyễn Tư Giản, Nguyễn Văn Vĩ nêu ra đó là đào sông Thiên Đức theo dòng sông mới thuộc xã Thanh Am trở xuống thay vì đào theo dòng sông cũ thuộc xã Quán Tình.
Châu bản triều Nguyễn, Tự Đức tập 115, tờ 250 cho biết lần tiến hành khai thông sông Thiên Đức theo dòng mới ở địa phận xã Thanh Am bao gồm các việc đào vét, đắp đê, bịt lỗ hổng dự chi phí đến 30 vạn quan tiền.
Nguồn kinh phí này được triều đình cho phép thu tiền thuế ruộng ở Bắc kỳ hỗ trợ kinh phí, mặt khác khuyến dân các địa phương. Người nghèo góp sức, người giàu bỏ tiền của để giúp thêm. Lại cử Nguyễn Văn Vĩ cùng Nguyễn Tư Giản lo tính công việc, tận tâm làm việc hẹn lúc báo cáo thành công tất có thưởng lớn.
Chính sử Đại Nam thực lục cho biết, tháng 10 năm Tự Đức thứ 12 (1859), Bắc Kỳ tâu báo dòng sông yên sóng. Năm ấy đào sông Thiên Đức vừa xong, đê điều 2 bên bờ sông san lấp khó nhọc. Vua đều cho thưởng thêm.
Trong cuốn Một chiến dịch ở Bắc Kỳ, tác giả, bác sĩ quân y Hocquard cũng có một số ghi chép về dòng sông này. Tác giả viết: “Sáng ngày 11/3 [1884] chúng tôi xuống sông Đuống, còn gọi là sông đào Bắc Ninh. Dòng sông này hầu như do người An Nam đào hoàn toàn để thuyền bè có thể lưu thông thẳng từ sông Hồng sang sông Thái Bình, dài khoảng năm mươi lăm kilômét và rộng từ mười đến mười lăm mét.
Công trình đồ sộ này mới hoàn thành cách đây ba chục năm thôi, mang lại vinh quang tột độ cho các vị quan đã đề xuất ý tưởng và cho các làng đã thực hiện toàn bộ công trình bằng lao động của dân phu. Xem bản đồ Bắc Kỳ thì lợi ích của con sông đập vào mắt ngay”.
Tóm lại, từ một dòng sông hung dữ, sông Thiên Đức nhờ trải qua những đợt cải tạo lớn nhỏ trong lịch sử và đặc biệt là dưới thời các vua nhà Nguyễn đã góp phần tạo nên một dòng sông thơ mộng, nước chảy hiền hòa như ngày nay.