Trình Quốc hội chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng để thực hiện hai Dự án hồ chứa nước sông Than và Bản Mồng
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng trình bày báo cáo thẩm tra, cho rằng, Dự án Hồ chứa nước Sông Than, Dự án hồ chứa nước Bản Mồng cơ bản phù hợp với các quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng.
Ngày 2-11, Quốc hội đã nghe Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình và Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng trình bày Báo cáo thẩm tra về chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác để thực hiện Dự án hồ chứa nước sông Than, tỉnh Ninh Thuận, Dự án hồ chứa nước Bản Mồng, tỉnh Nghệ An.
Trình bày Báo cáo, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường cho biết, về dự án hồ chứa nước sông Than, Dự án được Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận phê duyệt lần đầu tại Quyết định số 971/QĐ-UBND ngày 14-5-2010 với diện tích sử dụng đất 801,15 ha nhưng Dự án phải tạm dừng do khó khăn về nguồn vốn.
Mục tiêu của dự án là nhằm cấp nước tưới cho 4.500 ha đất canh tác; cấp nước sinh hoạt cho khoảng 20.000 hộ dân vùng hạ lưu, cấp 24 triệu m3/năm cho các ngành kinh tế khác; cấp nước bổ sung cho các hồ chứa nước Lanh Ra, Tà Ranh và Bầu Zôn, cắt giảm lũ cho khu vực hạ du và tình trạng ngập úng.
Dự án được khởi công xây dựng vào tháng 7 năm 2018 đến nay đã triển khai xây dựng được khoảng 35% khối lượng công việc.
Tại Quyết định phê duyệt lần thứ nhất năm 2010, Hồ Sông Than có cao trình đỉnh đập là +134,3 m, dung tích toàn bộ 49,84 triệu m3; diện tích sử dụng đất 801,15 ha. Trong đó, diện tích sử dụng đất lâm nghiệp là 568,1 ha, gồm: đất lâm nghiệp có rừng 421,9 ha (phòng hộ 1,7 ha, sản xuất 420,2 ha), đất lâm nghiệp không có rừng 146,2 ha (phòng hộ 1,2 ha, sản xuất 145 ha). Như vậy, đối chiếu với quy định tại Nghị quyết số 66/2006/NQ-QH11, Dự án không thuộc nhóm dự án, công trình quan trọng quốc gia.
Tại Quyết định phê duyệt lần thứ hai năm 2017, Hồ Sông Than được điều chỉnh lên cao trình đỉnh đập là +141,5 m; dung tích toàn bộ 85,04 triệu m3; diện tích sử dụng đất là 1.011,86 ha. Trong đó, diện tích đất có rừng 576,69 ha (phòng hộ 6,88 ha, sản xuất 514,55 ha, ngoài quy hoạch lâm nghiệp 55,26 ha), đất chưa có rừng 435,17 ha. Vì vậy, theo Nghị quyết số 49/2010/QH12, dự án Hồ chứa nước Sông Than vẫn không thuộc dự án, công trình quan trọng quốc gia.
Đến năm 2019, UBND tỉnh Ninh Thuận đã điều chỉnh diện tích rừng chuyển mục đích sử dụng ở cao trình mực nước dâng bình thường là 134,3m (thay vì ở cao trình đỉnh đập cao nhất là +141 m) đã làm diện tích sử dụng đất giảm xuống còn là 885,51 ha, trong đó có 431,76 ha rừng đề xuất chủ trương chuyển mục đích sử dụng.
Theo Luật Lâm nghiệp và kết quả phê duyệt 3 loại rừng, Dự án có 100,63 ha rừng phòng hộ (tăng 90,73 ha so với phê duyệt năm 2010) và 309,48 ha rừng sản xuất (giảm 205,07 ha so với phê duyệt năm 2010); diện tích rừng quy hoạch đưa ra ngoài 3 loại rừng 21,65 ha (giảm 222,93 ha so với phê duyệt năm 2010). Vì vậy, sau khi cập nhật diện tích sử dụng đất thì Dự án Hồ chứa nước Sông Than thuộc dự án quan trọng quốc gia và Thẩm quyền quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng thuộc Quốc hội.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường cho biết, Dự án có phát sinh tiêu chí quan trọng quốc gia do có sử dụng 100,63 ha rừng phòng hộ đầu nguồn. Vì vậy, việc Chính phủ đề nghị Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng 100,63 ha rừng phòng hộ để thực hiện Dự án là đúng quy định; vị trí rừng phải chuyển đổi của Dự án là bắt buộc để bảo đảm hiệu quả đầu tư công trình.
Về trồng rừng thay thế, Dự án đã có phương án trồng rừng thay thế được UBND tỉnh Ninh Thuận phê duyệt tại Quyết định số 2244 năm 2018; đến nay UBND tỉnh Ninh Thuận đã chỉ đạo việc trồng rừng thay thế với diện tích 595 ha. Ngoài ra, UBND tỉnh Ninh Thuận cam kết “sau khi được Quốc hội quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác để thực hiện dự án hồ chứa nước Sông Than, sẽ phê duyệt kinh phí trồng rừng thay thế bổ sung theo quy định của Luật Lâm nghiệp”.
Về Dự án hồ chứa nước Bản Mồng, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường nêu rõ, Dự án được Thủ tướng Chính phủ cho phép đầu tư tại Văn bản số 154/TTg-NN ngày 20-1-2006; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt dự án đầu tư năm 2009 và được khởi công năm 2010 nhưng đến năm 2011 dự án tạm dừng do Chỉ thị số 1792/CT-TTg. Năm 2017, dự án được bố trí vốn trở lại trong trung hạn 2016-2020 để tiếp tục thực hiện và được Chính phủ cho phép phân kỳ đầu tư thành 02 giai đoạn.
Mục tiêu của dự án là nhằm cấp nước cho sản xuất nông nghiệp (tưới 18.871 ha), cấp nước cho công nghiệp, dân sinh; bổ sung nước về mùa kiệt cho sông Cả với lưu lượng 22 m3/s và cho 2 hệ thống thủy lợi lớn ở hạ du là Nam và Bắc Nghệ An; kết hợp phát điện (45MW); tích nước phòng lũ, giảm lũ cho hạ du sông Hiếu; phục vụ phát triển công nghiệp, du lịch.
Đến nay, Dự án đã triển khai xây dựng được khoảng 90% khối lượng công việc; lũy kế giải ngân đến nay đạt 83% và dự kiến đến cuối năm 2020 cơ bản hoàn thành giai đoạn I.
Dự án tuân thủ đúng quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, về đất đai trong bồi thường, giải phóng mặt bằng; được Bộ Tài nguyên và Môi trường phê duyệt Báo cáo đánh giá tác động môi trường năm 2011.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường cho biết, tại Quyết định phê duyệt lần đầu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn năm 2009 thì tổng diện tích chiếm đất của Dự án là 5.259,30 ha, trong đó đất rừng phòng hộ là 94,0 ha; đất rừng sản xuất là 671,10 ha. Vì vậy, tại thời điểm năm 2009, Dự án Hồ chứa nước Bản Mồng không thuộc dự án, công trình quan trọng quốc gia.
Năm 2017, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt điều chỉnh dự án và năm 2019, UBND tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An đã xác định diện tích sử dụng đất của Dự án sau điều chỉnh là 3.963,83 ha (giảm 1.295.5 ha so với phê duyệt năm 2009). Trong đó, diện tích đề nghị chuyển mục đích sử dụng rừng là 1.131,22 ha (Nghệ An 544,77 ha, Thanh Hóa 586,45 ha). Trong đó, rừng phòng hộ đầu nguồn: 312,95 ha; rừng sản xuất: 661,08 ha; rừng ngoài quy hoạch lâm nghiệp: 157,19 ha.
Như vậy, đối chiếu với quy định của Luật Đầu tư công thì Dự án có 312,95 ha rừng phòng hộ phải chuyển mục đích sử dụng rừng nên thuộc tiêu chí Dự án quan trọng quốc gia và thẩm quyền quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng thuộc Quốc hội.
Ngoài ra, Dự án đã thực hiện nghiêm túc các quy định pháp luật về hồ sơ, trình tự thủ tục chuyển mục đích sử dụng rừng được thực hiện theo quy định của Luật Lâm nghiệp và Nghị định 83/2020/NĐ-CP. Theo báo cáo của UBND tỉnh Nghệ An, UBND tỉnh Thanh Hóa diện tích rừng tự nhiên phải chuyển đổi là 662,55 ha đều thuộc loại rừng nghèo, nghèo kiệt; vị trí rừng tự nhiên phải chuyển đổi của Dự án là bắt buộc để bảo đảm hiệu quả đầu tư công trình.
Các tỉnh Nghệ An, tỉnh Thanh Hóa là các tỉnh có diện tích rừng lớn, nếu được phép chuyển đổi diện tích rừng để thực hiện Dự án thì độ che phủ rừng của Thanh Hóa có giảm 0,05%, Nghệ An có giảm 0,03% nhưng vẫn ở mức cao so với toàn quốc. Trong hồ sơ dự án các tỉnh đều xây dựng phương án trồng rừng thay thế bằng việc nộp tiền vào Quỹ bảo vệ và phát triển rừng để trồng rừng tại địa phương, đã tuân thủ nghiêm túc, đáp ứng các quy định của pháp luật.
Do đó, Chính phủ đề nghị Quốc hội xem xét quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng 1.131,22 ha đất rừng trên địa bàn hai tỉnh Nghệ An (544,77 ha) và Thanh Hóa (586,45 ha), trong đó: Rừng phòng hộ 312,95 ha rừng phòng hộ, 661,08 ha rừng sản xuất và 157,19 ha rừng ngoài quy hoạch lâm nghiệp để thực hiện Dự án Hồ chứa nước Bản Mồng, tỉnh Nghệ An.
Sau khi nghe báo cáo của Chính phủ, Quốc hội nghe Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng trình bày báo cáo thẩm tra, cho rằng, Dự án Hồ chứa nước Sông Than, Dự án hồ chứa nước Bản Mồng cơ bản phù hợp với các quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng (giai đoạn 2011- 2020; quy hoạch 03 loại rừng giai đoạn 2016-2025; phù hợp với quy hoạch thủy lợi của các địa phương, của tỉnh, quy hoạch thủy lợi khu vực miền Trung giai đoạn 2012-2020 và định hướng đến năm 2050; phù hợp với Chiến lược phát triển thủy lợi Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045.
Ủy ban KHCN&MT thấy rằng, các dự án này khi đi vào hoạt động sẽ giải quyết tốt như cầu về nước tưới cho sản xuất nông nghiệp, cấp nước thô cho sản xuất công nghiệp, dịch vụ và dân sinh, cải thiện điều kiện hạ tầng thiết yếu cho phát triển KT-XH của 2 huyện miền núi thường xuyên chịu khô hạn của tỉnh Ninh Thuận, vùng tây Nghệ An và Nam Thanh Hóa; góp phần điều tiết nước, cắt giảm lũ, phòng chống thiên tai; từng bước giải quyết nhu cầu thiếu nước và khép kín hệ thống công trình thủy lợi.