Trình Quốc hội chủ trương đầu tư Dự án đường Vành đai 4 TP. Hồ Chí Minh
Chiều 12/6, Quốc hội thảo luận tại Hội trường, nghe tờ trình về chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng đường Vành đai 4 TP. Hồ Chí Minh với tổng mức đầu tư giai đoạn 1 khoảng hơn 120.412 tỷ đồng.
Tuyến đường 8 làn xe với mức đầu tư hơn 120.412 tỷ đồng
Trình bày Tờ trình, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh cho biết, tổng chiều dài toàn tuyến Vành đai 4 TP.HCM khoảng 207,26 km, điểm đầu tại ngã tư Tóc Tiên - Châu Pha (khu vực nút giao với cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu và đường tỉnh ĐT.992), điểm cuối giao với đường trục Bắc - Nam tại khu vực Cảng Hiệp Phước, huyện Nhà Bè, TP.HCM.

Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh
Về phạm vi đầu tư, tổng chiều dài đầu tư khoảng 159,31 km; bao gồm: đoạn qua tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (cũ) có chiều dài khoảng 18,23 km; đoạn qua tỉnh Đồng Nai có chiều dài khoảng 46,08 km. Đoạn qua TP. HCM có chiều dài khoảng 20,5 km và đoạn qua tỉnh Long An (nay là Tây Ninh) có chiều dài khoảng 74,5 km.
Riêng đoạn qua tỉnh Bình Dương (cũ) với chiều dài khoảng 47,95 km đã được HĐND tỉnh Bình Dương thông qua chủ trương đầu tư, đang triển khai đầu tư độc lập. Quy mô đầu tư đường cao tốc, giai đoạn 1 (giai đoạn phân kỳ) đầu tư với quy mô 4 làn xe cao tốc, tốc độ thiết kế 100 km/h, bề rộng nền đường 25,5m. Giai đoạn hoàn chỉnh đầu tư với quy mô 8 làn xe cao tốc. Tổng bề rộng nền đường (bao gồm đường cao tốc và đường song hành) là 74,5m. Sơ bộ nhu cầu sử dụng đất khoảng 1.420,70 ha.
Chính phủ đề xuất đầu tư theo hình thức đầu tư công đối với các dự án thành phần bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và xây dựng đường gom, đường song hành. Đầu tư theo phương thức PPP, loại hợp đồng BOT đối với các dự án thành phần đầu tư xây dựng phần đường cao tốc.
Dự án được chia làm 2 nhóm, gồm 10 dự án thành phần. Sơ bộ tổng mức đầu tư giai đoạn 1 khoảng hơn 120.412 tỷ đồng. Vốn ngân sách nhà nước khoảng hơn 69.780 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách trung ương khoảng hơn 29.687 tỷ đồng, vốn ngân sách địa phương khoảng hơn 40.092 tỷ đồng. Vốn nhà đầu tư huy động hơn 50.632 tỷ đồng.

Quốc hội thảo luận tại Hội trường, thông qua chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng đường Vành đai 4 TP. Hồ Chí Minh.
Chính phủ đề xuất thi công xây dựng từ năm 2026 -2029 (phấn đấu hoàn thành cuối năm 2028). Đồng thời, Chính phủ cũng đề xuất 7 cơ chế, chính sách đặc thù cho Dự án.
Tạo sức bật cho kinh tế TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh Đông Nam Bộ
Về sự cần thiết đầu tư tư khép kín đường Vành đai 4 TP. Hồ Chí Minh, Bộ trưởng Trần Hồng Minh khẳng định: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030, trong đó xác định một trong ba đột phá chiến lược là: “Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn”, với mục tiêu “Đến năm 2030, phấn đấu cả nước có khoảng 5.000 km đường bộ cao tốc” và “Kết nối đồng bộ hệ thống giao thông với các khu kinh tế, khu công nghiệp, cảng hàng không, cảng biển”.
Việc đầu tư khép kín đường Vành đai 4 TP. Hồ Chí Minh là cần thiết nhằm cải thiện năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; đáp ứng yêu cầu về kết nối, vận tải hàng hóa và hành khách, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, rút ngắn khoảng cách và thời gian đi lại giữa các vùng, miền, tạo liên kết giữa các trung tâm kinh tế - chính trị, các địa phương, cảng biển quốc tế, cảng hàng không quốc tế...
Dự án đáp ứng nhu cầu vận tải liên vùng Đông Nam bộ, Nam Trung Bộ, Tây Nam Bộ, Tây Nguyên và kết nối với Campuchia; kết nối các khu công nghiệp, cảng biển và cảng hàng không quốc tế; kết nối các khu đô thị, mở rộng và phát triển đô thị.
Dự án đầu tư xây dựng đường Vành đai 4 TP. Hồ Chí Minh dự kiến sẽ đem lại lợi ích kinh tế to lớn không chỉ cho người tham gia giao thông mà còn đem lại lợi ích cho hàng loạt hoạt động kinh tế - xã hội ở các khu vực ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của Dự án…
Kinh nghiệm của các nước trong khu vực và thế giới cho thấy, đầu tư phát triển đường bộ cao tốc là tất yếu khách quan, tạo động lực, sức lan tỏa để phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Thực tế tại Việt Nam, các địa phương có đường bộ cao tốc kết nối đều có mức tăng trưởng kinh tế cao hơn bình quân cả nước, góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân, tạo diện mạo mới cho các địa phương. Đặc biệt đối với hệ thống đường vành đai các đô thị đặc biệt như TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh được đầu tư xây dựng đều có tác động mạnh mẽ đến kinh tế - xã hội.

Các đại biểu tham dự Phiên họp.
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với TP. Hồ Chí Minh cùng 7 tỉnh gồm Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Tiền Giang và Bà Rịa - Vũng Tàu là khu vực quan trọng, đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chính phủ đã xác định vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nắm giữ vai trò “đầu tàu”, dẫn dắt, phát triển bền vững đối với kinh tế đất nước.
Tuy diện tích chỉ chiếm 9,2%, nhưng GDP của vùng chiếm hơn 45% cả nước và gần 51% GDP của bốn vùng kinh tế trọng điểm, đóng góp hơn 42% tổng thu ngân sách; trong đó, có 4 địa phương có tỷ lệ điều tiết ngân sách về Trung ương thuộc nhóm cao nhất (TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và Bình Dương).
Mặc dù vậy, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam hiện đang có điểm nghẽn do sự phát triển của hệ thống giao thông vận tải chưa đáp ứng được yêu cầu. Chi phí logistic cao, tình trạng ùng tắc giao thông tại các đô thị, đặc biệt là TP. Hồ Chí Minh. Những điểm nghẽn về kết nối, cơ sở hạ tầng giao thông của vùng đã được cảnh báo từ nhiều năm qua. Tuy nhiên, đến nay mức độ chuyển biến chưa tương xứng như kỳ vọng.
Việc tiếp tục và đẩy mạnh đầu tư hệ thống hạ tầng giao thông đặc biệt là các tuyến vành đai của TP. Hồ Chí Minh, trong đó có Vành đai 4 là rất quan trọng nhằm tạo động lực, sức lan tỏa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của TP. Hồ Chí Minh, các tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, Long An, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế - xã hội của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nói riêng và của cả nước nói chung.
Lựa chọn hướng tuyến tối ưu, bảo đảm hiệu quả đầu tư dự án
Thẩm tra sơ bộ, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi cho biết, Dự án đáp ứng các tiêu chí dự án thuộc thẩm quyền Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư theo quy định tại khoản 1 Điều 12 của Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP).

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi
Về sơ bộ phạm vi, quy mô, phương án thiết kế sơ bộ, Ủy ban Kinh tế và Tài chính đề nghị, Chính phủ thuyết minh, phân tích rõ hơn các ưu, nhược điểm của từng phương án tuyến để làm cơ sở lựa chọn hướng tuyến tối ưu, bảo đảm phù hợp với điều kiện địa hình và hiệu quả đầu tư của Dự án.
Đồng thời, rà soát, tính toán kỹ lưỡng việc phân bổ lưu lượng phương tiện trên toàn tuyến để bố trí các nút giao phù hợp với quy định hiện hành, nhằm bảo đảm an toàn trong quá trình vận hành khai thác và tiết giảm, tối ưu hóa tổng mức đầu tư Dự án.
Ủy ban Kinh tế và Tài chính cũng đề nghị Chính phủ căn cứ quy định của Luật Đầu tư công, Luật PPP hiện hành báo cáo bổ sung việc thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn cho Dự án.
Qua các ý kiến thảo luận, ý kiến của Cơ quan thẩm tra, kết luận nội dung này Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Hồng Thanh đề nghị Chính phủ cần rà soát, đánh giá kỹ lưỡng sự phù hợp của các quy hoạch có liên quan đối với phạm vi hướng tuyến, quy mô đầu tư, phương án thiết kế sơ bộ của dự án, nhất là việc bố trí nút giao, đường giao, đường song hành; bảo đảm yêu cầu kỹ thuật, kết nối vùng, các khu công nghiệp, cảng biển và cảng hàng không quốc tế; sơ bộ phương án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư; sơ bộ tổng mức đầu tư, tiến độ của dự án.
Đồng thời, nghiên cứu làm rõ hơn việc lựa chọn hình thức đầu tư và phân chia các dự án thành phần phù hợp với chủ trương sáp nhập các tỉnh, thành phố.