'Trợ lực' để doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ bứt phá
Công nghiệp hỗ trợ ngày càng khẳng định vai trò trụ cột của nền công nghiệp quốc gia, là nền tảng giúp giảm phụ thuộc vào nhập khẩu, nâng giá trị gia tăng trong sản phẩm và nâng cao năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, công nghiệp hỗ trợ Việt Nam còn hạn chế về quy mô, yếu về tiềm lực, rất cần có sự trợ lực từ chính sách.
Cú hích thu hút đầu tư công nghiệp hỗ trợ
Ông Phạm Văn Quân - Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp (Bộ Công thương) thẳng thắn nhìn nhận, sau gần một thập kỷ kể từ khi Nghị định số 111/2015/NĐ-CP về phát triển công nghiệp hỗ trợ ra đời, lĩnh vực này vẫn phát triển chưa tương xứng với tiềm năng.
Nguyên nhân, theo ông Quân, đến từ 2 yếu tố: thiếu vốn và thiếu công nghệ. Đầu tư vào công nghiệp hỗ trợ đòi hỏi chi phí lớn, trong khi doanh nghiệp trong nước hầu hết có quy mô nhỏ, khó tiếp cận tín dụng và công nghệ tiên tiến. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng chưa thực sự "mở cửa" để doanh nghiệp Việt tham gia chuỗi cung ứng, do yêu cầu khắt khe về kỹ thuật và tiêu chuẩn quốc tế.

Hiện vốn FDI đầu tư vào công nghiệp hỗ trợ mới chỉ khoảng 20 tỷ USD, còn khiêm tốn so với nhu cầu. Ảnh: Đức Thanh
Trong 9 tháng năm 2025, Việt Nam đạt kỷ lục xuất nhập khẩu hàng hóa trị giá hơn 680 tỷ USD, song có tới 94% giá trị nhập khẩu là nguyên liệu, linh kiện, những sản phẩm có thể sản xuất trong nước nếu công nghiệp hỗ trợ phát triển mạnh. Hiện vốn FDI đầu tư vào công nghiệp hỗ trợ mới chỉ khoảng 20 tỷ USD, còn doanh nghiệp nội đầu tư khoảng 5 - 6 tỷ USD. Những con số này còn thấp so với nhu cầu.
Theo thống kê của cơ quan chức năng, tại Việt Nam hiện có khoảng 1.700 doanh nghiệp FDI hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, chiếm khoảng 40% tổng số doanh nghiệp toàn ngành. Tuy nhiên, đi sâu vào cơ cấu ngành hàng, tỷ lệ nội địa hóa ở nhiều lĩnh vực vẫn còn thấp. Cụ thể, tỷ lệ nội địa hóa trong ngành dệt may - da giày đạt khoảng 45 - 50%, cơ khí chế tạo đạt 15 - 20%, lắp ráp ô tô chỉ 5 - 20%. Trong khi đó, khoảng 6.000 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước mới chỉ đáp ứng được 10% nhu cầu linh kiện, phụ tùng phục vụ sản xuất.
Trước thực trạng trên, ông Quân cho biết, mới đây, Chính phủ ban hành Nghị định số 205/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số quy định của Nghị định số 111/2015/NĐ-CP, có hiệu lực từ ngày 1/9/2025. Nghị định mới đã mở rộng phạm vi hỗ trợ, từ nghiên cứu, thử nghiệm, chuyển giao công nghệ đến hỗ trợ thị trường và ưu đãi thuế. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ được ưu đãi lãi suất vay thấp hơn 3% so với vay thương mại, đồng thời được hỗ trợ chi phí nghiên cứu và phát triển (R&D), sản xuất thử nghiệm tại các trung tâm phát triển công nghiệp do Bộ Công thương đầu tư. Những quy định này được đánh giá là "cơ hội vàng" cho các doanh nghiệp trong nước.
Doanh nghiệp Việt chủ động nhập cuộc
Cơ chế đã mở, nhưng theo các chuyên gia kinh tế, ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam có phát triển đột phá hay không phụ thuộc lớn vào các doanh nghiệp.
Bà Trần Thị Thu Trang - Chủ tịch Hanel PT chia sẻ, thời gian qua, rất nhiều doanh nghiệp tư nhân, trong đó có Hanel PT, đã không ngừng nỗ lực vươn lên trong điều kiện còn nhiều ràng buộc về cơ chế, thiếu nguồn vốn dài hạn. Để phát huy được tiềm năng, cộng đồng doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ rất kỳ vọng các chính sách mới thực sự đi vào cuộc sống với tốc độ nhanh hơn, thủ tục gọn nhẹ hơn và cơ chế mở hơn.
Từ thực tiễn hoạt động, bà Trang khẳng định, doanh nghiệp tư nhân trong nước hoàn toàn có thể đóng vai trò nòng cốt trong chiến lược phát triển công nghiệp quốc gia, nếu được tin tưởng, đồng hành và tạo điều kiện bằng những chính sách kịp thời, sát thực như Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân.
Theo đó, doanh nghiệp mong muốn Nhà nước đẩy mạnh các chương trình ưu đãi tín dụng trung và dài hạn, giảm chi phí tiếp cận đất đai, hỗ trợ đào tạo nhân lực chất lượng cao...
Bên cạnh sự hỗ trợ của Nhà nước như điều kiện “cần”, theo bà Trang, điều kiện “đủ” vẫn nằm ở nội lực của mỗi doanh nghiệp. Trước hết, doanh nghiệp cần thay đổi tư duy từ “đi tìm hỗ trợ” sang “xây dựng năng lực tự thân” với nguồn lực quan trọng nhất không nằm ở vốn hay máy móc, mà chính là con người và cách doanh nghiệp khơi dậy, dẫn dắt và quản trị nhân sự.
Hiến kế để phát triển công nghiệp hỗ trợ và giúp doanh nghiệp trong ngành nâng cao năng lực cạnh tranh, ông Phan Đăng Tuất - Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam (VASI) cho hay, 90% doanh nghiệp trong ngành công nghiệp chế tạo Việt Nam đều khao khát được tiếp tục mở rộng, phát triển và hướng tới chế tạo những sản phẩm hoàn chỉnh. Vì thế, một ý tưởng lớn là chuyển từ chế tạo chi tiết linh kiện sang cung cấp chi tiết và sản phẩm hoàn chỉnh.
Chủ tịch VASI phân tích, nếu các doanh nghiệp Việt chỉ dừng lại ở việc sản xuất chi tiết linh kiện, thì sẽ ngày càng bị phụ thuộc thị trường quốc tế nhiều hơn. Do đó, phải tiến tới hợp tác để cùng chế tạo các cụm chi tiết hay các sản phẩm hoàn chỉnh.
“VASI đã trình Chính phủ một vài sản phẩm ban đầu để đề xuất hỗ trợ và cũng dự kiến lên một danh sách sản phẩm mà các doanh nghiệp trong nước có thể làm được. Ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam gồm 4 nhóm ngành lớn là linh kiện điện tử, linh kiện cơ khí, linh kiện nhựa cao su và các phụ liệu, các doanh nghiệp trong nước có thể bắt tay để chế tạo các cụm chi tiết hay các sản phẩm hoàn chỉnh. Có như vậy, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam mới có thể lớn mạnh và trụ vững trong môi trường cạnh tranh ngày càng lớn trên toàn cầu...” - ông Tuất nhấn mạnh.