Vào cuối thập niên 1950, Washington và Đài Bắc bắt đầu tiến hành chương trình trinh sát tối mật mang tên "Soft Touch", nhằm theo dõi Chương trình phát triển hạt nhân của Bắc Kinh. Ảnh: Máy bay trinh sát U-2. Nguồn: Wikipedia.
Để tiếp cận các địa điểm nằm sâu trong đất liền ở khu vực tây bắc Trung Quốc, Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) đã tuyển chọn và đào tạo hàng loạt phi công Đài Loan để lái loại máy bay trinh sát chiến lược tầm cao U-2, với mục đích chụp ảnh các khu vực nghi ngờ là cơ sở hạt nhân của Trung Quốc. Ảnh: Máy bay trinh sát U-2. Nguồn: Wikipedia.
Bắt đầu từ tháng 3/1959, các phi công Đài Loan được đưa đến Mỹ để huấn luyện với loại máy bay trinh sát U-2. Vào ngày 1/5/1960 Liên Xô bắn rơi máy bay U-2 do phi công Gary Powers điều khiển, khiến tình hình 2 quốc gia Xô - Mỹ trở lên căng thẳng; và 5 ngày sau, Tổng thống Mỹ Dwight Eisenhower đồng ý bán một phi đội U-2 cho Đài Loan. Ảnh: Phi công Francis Gary Powers điều khiển chiếc U-2 bị Liên Xô bắn rơi - Nguồn: Wikipedia.
Với sự hỗ trợ từ CIA, đơn vị U-2 hỗn hợp Mỹ - Đài được thành lập năm 1959 với tên gọi Phi đoàn số 35 "Mèo Đen", bắt đầu bay trinh sát lãnh thổ Trung Quốc đại lục từ năm 1962. Trong giai đoạn đầu, các chuyến bay do thám diễn ra rất thuận lợi, do quân đội Trung Quốc không đủ khả năng bắn hạ những chiếc U-2. Ảnh: Biểu tượng chính thức của Phi đội Mèo Đen - Nguồn: Wikipedia.
Lúc này Không quân Trung Quốc chỉ được trang bị máy bay chiến đấu MiG-17, trần bay tối đa là 16.000 m; trong khi U-2 bay ở độ cao trên 20.000 m. Mặc dù Trung Quốc có thể phát hiện U-2 xâm nhập không phận, nhưng đành bất lực. Vì vậy U-2 ngang nhiên tiến hành trinh sát lãnh thổ Trung Quốc vào ban ngày. Ảnh: Máy bay chiến đấu MiG-17 của Không quân Trung Quốc - Nguồn: Sina
Trung Quốc sau đó từ bỏ nỗ lực điều tiêm kích đánh chặn, bắt đầu triển khai và ngụy trang hệ thống tên lửa phòng không S-75 Dvina gần các cơ sở hạt nhân. Chiến thuật này phát huy hiệu quả, khiến phi đoàn Mèo Đen hứng chịu thiệt hại đầu tiên ngày 9/9/1962. Ảnh: Tên lửa phòng không S-75 của Trung Quốc - Nguồn: Sina
Do hệ thống phòng không S-75 có tầm bắn hạn chế, để bắn trúng chiếc U-2 ở độ cao hành trình, quả đạn phải được phóng gần như ngay dưới đường bay của nó. Trong khi lúc này, do căng thẳng Trung - Xô, nên viện trợ quân sự của Liên Xô cho Trung Quốc không còn, nên khi đó họ chỉ có 4 tiểu đoàn tên lửa đủ khả năng sẵn sàng chiến đấu. Ảnh: Bệ phóng tên lửa HQ-2, bản sao S-75 do Trung Quốc chế tạo, trong bảo tàng ở Bắc Kinh - Nguồn: Flickr/Ken Patterson.
Do tính năng hạn chế của hệ thống phòng không S-75 cũng như số lượng có hạn, buộc Trung Quốc áp dụng chiến thuật du kích để đánh chặn máy bay U-2. Các bệ phóng tên lửa được gắn cố định trên xe tải, nhằm tăng khả năng cơ động. Ảnh: Một bệ phóng tên lửa S-75 cơ động của Trung Quốc - Nguồn: Sina
Do nắm được hành trình trinh sát của U-2, Trung Quốc bố trí tên lửa phòng không quanh khu vực đó và chỉ khai hỏa khi chiếc U-2 bay vào trong bán kính 15 km. Các kíp phòng không Trung Quốc cũng áp dụng nhiều biện pháp để ẩn mình, như ngụy trang trận địa, không bật radar điều khiển hỏa lực cho tới khi mục tiêu vào tầm bắn. Ảnh: Một trận địa S-75 khai hỏa - Nguồn: Sina
U-2 là loại máy bay trinh sát có trần bay cao, nhưng tốc độ chậm, đường bay tương đối ổn định, khả năng cơ động rất kém. Khi U-2 vào tầm sát thương hỏa lực của tên lửa S-75, các kíp chiến đấu bất ngờ bật radar và khai hỏa, phi công U-2 gần như không thể phản ứng. Ảnh: Máy bay trinh sát U-2. Nguồn: Wikipedia.
Bằng chiến thuật này, phòng không Trung Quốc đã bắn hạ một chiếc U-2 gần thành phố Nam Xương vào ngày 9/9/1962, phi công Chen Huai thiệt mạng. Washington bác bỏ cáo buộc liên quan đến chuyến bay, dù trong thực tế những chiếc U-2 của phi đoàn Mèo Đen đều do Mỹ sản xuất, được nhân viên CIA bảo dưỡng và sửa chữa. Ảnh: Phi công và máy bay U-2 thuộc Phi đoàn Mèo Đen - Nguồn: Taiwan Air Power.
Trong bối cảnh Bắc Kinh triển khai thêm hàng loạt trận địa tên lửa S-75. Thêm hai chiếc U-2 bị bắn hạ ngày 1/11/1963 và 7/7/1964, khiến Đài Loan yêu cầu Mỹ lắp hệ thống tác chiến điện tử cho máy bay U-2 khi trinh sát Trung Quốc. Ảnh: Xác một chiếc U-2 bị Trung Quốc bắn hạ được trưng bày trong bảo tàng Quân sự Trung Quốc - Nguồn: Flickr/Paul Cheese.
Những chiếc U-2 thời điểm đó có hệ thống cảnh báo radar chiếu xạ System XII, nhưng không được lắp bộ gây nhiễu hiện đại System XIII, do Mỹ lo ngại chúng rơi vào tay Trung Quốc. Nhưng do yêu cầu do thám tăng cao, buộc Mỹ đồng ý lắp System XIII, nhưng yêu cầu phi công Đài Loan không khởi động chúng, cho đến khi phát hiện mình bị radar tổ hợp S-75 bám bắt. Ảnh: Xác máy bay do thám U-2 bị Trung Quốc bắn rơi - Nguồn: Sina
Tuy nhiên, biện pháp này cũng không thực sự hiệu quả trước chiến thuật tắt radar dấu mình của lực lượng phòng không Trung Quốc. Thêm một chiếc U-2 bị rơi trong tình huống được giữ bí mật hơn 50 năm, khiến Đài Loan từ chối tiến hành do thám Trung Quốc đại lục, trừ khi phi công được kích hoạt System XIII trong toàn bộ chuyến bay. Ảnh: Xác máy bay do thám U-2 ở Bảo tàng Quân sự Trung Quốc - Nguồn: Sina
Mỹ quyết định dừng hoạt động do thám trên bầu trời Trung Quốc từ năm 1968, nhưng máy bay U-2 của Đài Loan vẫn tiếp tục hoạt động do thám những khu vực cách đại lục trên 40 km cho đến năm 1974, thời điểm quan hệ Bắc Kinh - Washington được cải thiện rõ rệt và Phi đoàn Mèo Đen chuyển sang Hàn Quốc. Ảnh: Máy bay trinh sát U-2. Nguồn: Wikipedia.
Video Bí ẩn về SR-71 – máy bay do thám nhanh nhất thế giới - Nguồn: QPVN
Tiến Minh