Trung tâm dữ liệu xanh trở thành 'cột sống' cho hạ tầng số

Với dự báo thị trường AI Việt Nam có thể đạt 65 tỷ USD vào năm 2035, trung tâm dữ liệu đặc biệt là mô hình xanh và quy mô lớn – được coi là yếu tố then chốt quyết định năng lực cạnh tranh, song đi kèm những áp lực lớn về năng lượng và chính sách.

Hạ tầng dữ liệu Việt Nam: Thị trường mới nổi hấp dẫn các nhà đầu tư. Ảnh minh họa

Hạ tầng dữ liệu Việt Nam: Thị trường mới nổi hấp dẫn các nhà đầu tư. Ảnh minh họa

Trí tuệ nhân tạo (AI) đang tạo ra nhu cầu dữ liệu tăng vọt chưa từng có, biến dữ liệu thành tài sản chiến lược trong bối cảnh địa chính trị phức tạp. Không chỉ lưu trữ, mà việc xử lý và bảo mật dữ liệu trong nước ngày càng trở thành yếu tố an ninh quốc gia.

Theo Deloitte, thị trường AI tại Việt Nam có thể đạt 65 tỷ USD vào năm 2035, trong đó 30 tỷ USD đến từ ứng dụng, 10 tỷ USD từ nền tảng và 25 tỷ USD từ cơ sở hạ tầng.

Đáng chú ý, trọng tâm đang nhanh chóng dịch chuyển sang hạ tầng, với trung tâm dữ liệu (TTDL) trở thành tâm điểm quyết định khả năng sẵn sàng cho AI của mỗi quốc gia và khu vực.

Tại Ngày đổi mới sáng tạo Hà Nội 2025 (Innovation Day Hanoi 2025), được tổ chức ngày 17/9, TS. Trần Văn Khải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, chia sẻ: Việt Nam đang khẩn trương hoàn thiện thể chế và hành lang pháp lý để đón dòng vốn mới. Ông Khải dự báo trong 5 năm tới, làn sóng đầu tư vào Việt Nam sẽ tăng mạnh, kéo theo nhu cầu cấp thiết về hạ tầng số và hệ sinh thái đi kèm.

Song hành với cơ hội là bài toán năng lượng, Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA) dự báo đến năm 2028, AI có thể chiếm 15-20% tổng điện năng tiêu thụ của TTDL toàn cầu, gần gấp đôi mức 8% năm 2023. Đây là áp lực đáng kể đối với hệ thống điện Việt Nam, vốn đã chịu nhiều thách thức về nguồn cung.

Ông Pang Xingjian, Tổng giám đốc điều hành Schneider Electric khu vực Đông Á, nhận định Việt Nam đang đứng trước ngã rẽ của hai xu hướng lớn, một là chuyển đổi năng lượng và hai là bùng nổ AI. Đây vừa là động lực phát triển, vừa là thách thức cần vượt qua.

Ông Pang Xingjian, Tổng giám đốc điều hành Schneider Electric khu vực Đông Á. Ảnh: SE

Ông Pang Xingjian, Tổng giám đốc điều hành Schneider Electric khu vực Đông Á. Ảnh: SE

Chia sẻ với Mekong ASEAN, ông Pang cho biết: “Thực tế tại Việt Nam, 51% doanh nghiệp coi biến động giá năng lượng là rủi ro kinh doanh hàng đầu, trong khi 38% cho rằng các giải pháp năng lượng sạch thay thế vẫn còn non trẻ. Tuy nhiên, bền vững không chỉ là gánh nặng mà là cơ hội: 60% doanh nghiệp đánh giá AI giúp tối ưu tiêu thụ năng lượng, 51% tin rằng AI hỗ trợ tích hợp năng lượng tái tạo, và 50% cho rằng AI giúp quản lý tòa nhà thông minh hiệu quả hơn.”

Theo ông Pang, để tận dụng cơ hội, Việt Nam cần hạ tầng số sẵn sàng cho AI, đồng thời giải quyết ba thách thức chính: tiêu thụ năng lượng (25%), lưu trữ dữ liệu (21%) và an ninh mạng (29%).

Hạ tầng số không chỉ dừng ở trung tâm dữ liệu, mà còn bao gồm cả nền tảng năng lượng mạnh mẽ, an toàn và đáng tin cậy. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng, việc số hóa hệ thống năng lượng là điều kiện tiên quyết, giúp nguồn cung trở nên hiệu quả và linh hoạt hơn. Tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo cũng là yếu tố sống còn cho một hạ tầng số bền vững.

Điều đáng chú ý, AI có thể coi là “người tiêu thụ điện khổng lồ”. Nhưng ứng dụng AI trong nhiều lĩnh vực lại mở ra cơ hội tối ưu hóa mức tiêu thụ năng lượng. Ước tính, 45% mức tiết kiệm đến từ việc chuyển sang năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; 55% còn lại đến từ khía cạnh cung cấp, khi số hóa và AI giúp nâng cao hiệu quả quản lý và phân phối điện.

Trung tâm dữ liệu xanh và quy mô lớn: Bước đi chiến lược

TTDL không còn đơn thuần là hạ tầng lưu trữ, mà đã trở thành “cột sống” của nền kinh tế số. Trong báo cáo "Trung tâm dữ liệu và hạ tầng AI Đông Nam Á" phát hành tháng 9/2025, Deloitte dự báo đến năm 2035, 40–50% khối lượng công việc IT toàn cầu sẽ đến từ AI, kéo theo nhu cầu tính toán khổng lồ.

Riêng Đông Nam Á, công suất TTDL dự kiến tăng gấp bốn lần, từ 1,68 GW năm 2024 lên 7,59 GW, biến khu vực thành “chiến trường” mới cho các nhà đầu tư quy mô lớn.

Tuy nhiên, yếu tố quyết định không chỉ nằm ở quy mô, mà là mức độ “xanh”. Các chính phủ đang siết chặt yêu cầu phát thải carbon, trong khi khách hàng toàn cầu, đặc biệt là các tập đoàn công nghệ, coi ESG là điều kiện bắt buộc. Singapore chỉ cấp phép xây dựng TTDL gắn với cam kết năng lượng tái tạo. Malaysia và Indonesia nổi lên nhờ cơ chế mua bán điện (PPA) rõ ràng cho năng lượng sạch.

Mô hình trung tâm dữ liệu dạng mô đun của Schneider Electric được trưng bày ở khu vực Trung tâm dữ liệu quốc gia tại Triển lãm "80 năm Hành trình Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc". Ảnh: Ngọc Linh

Mô hình trung tâm dữ liệu dạng mô đun của Schneider Electric được trưng bày ở khu vực Trung tâm dữ liệu quốc gia tại Triển lãm "80 năm Hành trình Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc". Ảnh: Ngọc Linh

Một TTDL xanh không chỉ giảm phát thải mà còn tiết kiệm chi phí vận hành dài hạn. Công nghệ làm mát bằng chất lỏng trực tiếp đến chip có thể cắt giảm 30–40% nhu cầu nước so với hệ thống truyền thống. Hệ thống quản lý năng lượng thông minh giúp tối ưu theo thời gian thực, giảm đáng kể điện năng tiêu thụ. Quan trọng hơn, việc vận hành trên nền năng lượng tái tạo giúp đáp ứng các tiêu chuẩn ESG ngày càng khắt khe.

Trong bức tranh phát triển hạ tầng số, TTDL quy mô lớn và TTDL dạng mô đun là hai mô hình tưởng như đối lập nhưng thực tế lại bổ trợ cho nhau.

TTDL quy mô lớn công suất hàng trăm megawatt, đáp ứng nhu cầu khối lượng tính toán khổng lồ của AI, điện toán đám mây và các nền tảng toàn cầu. Đây là lựa chọn của các tập đoàn công nghệ quốc tế, nhưng đòi hỏi quỹ đất, nguồn điện và hạ tầng truyền tải ổn định.

TTDL dạng mô đun lại mang tính linh hoạt và nhanh triển khai. Với thiết kế mô đun, doanh nghiệp có thể mở rộng công suất theo từng giai đoạn, tiết kiệm vốn đầu tư ban đầu và giảm rủi ro. Mô hình này đặc biệt phù hợp với thị trường mới nổi như Việt Nam, nơi nhu cầu tăng nhanh nhưng quỹ đất và hạ tầng điện còn hạn chế.

Cushman & Wakefield tính toán Việt Nam cần bổ sung 6,6 GW điện mới trong 5 năm tới chỉ để đáp ứng nhu cầu TTDL. Trong khi đó, nguồn cung điện vẫn phụ thuộc nhiều vào than và thủy điện, còn năng lượng tái tạo dù dồi dào nhưng hiện vẫn còn thiếu cơ chế lưu trữ và truyền tải ổn định.

Theo các chuyên gia, Việt Nam cần phát triển song hành cả hai mô hình TTDL quy mô lớn để phục vụ khách hàng toàn cầu và khẳng định vị thế, và TTDL dạng mô đun để đáp ứng tăng trưởng trong nước.

Đây cũng là lý do các giải pháp UPS mô đun công suất lớn và làm mát tiết kiệm năng lượng của Schneider Electric được đánh giá cao, có thể áp dụng linh hoạt cho cả hai mô hình.

Những năm gần đây, thị trường Việt Nam chứng kiến làn sóng hyperscale rõ rệt. Viettel IDC khởi động dự án 140 MW tại Củ Chi, SAM DigitalHub triển khai 150 MW ở Bình Dương, CMC Telecom mở rộng lên 120 MW. Các tập đoàn quốc tế như Google, G42, Alibaba Cloud đều đã để mắt tới Việt Nam.

Công nghệ giải bài toán về hạ tầng và năng lượng

Galaxy VXL UPS của Schneider Electric – hệ thống nguồn liên tục ba pha 400V, công suất 500–1250 kW – có diện tích chỉ 1,2 m2 nhưng hiệu suất đạt 99% ở chế độ eConversion, mở rộng tới 5 MW. Đây là một giải pháp phù hợp cho cả TTDL dạng mô đun lẫn quy mô lớn.

Bộ lưu điện (UPS) Galaxy VXL - dòng UPS thế hệ mới với thiết kế mô-đun, công suất cao. Ảnh: Ngọc Linh

Bộ lưu điện (UPS) Galaxy VXL - dòng UPS thế hệ mới với thiết kế mô-đun, công suất cao. Ảnh: Ngọc Linh

Giải pháp làm mát bằng chất lỏng - Motivair. Ảnh: Ngọc Linh

Giải pháp làm mát bằng chất lỏng - Motivair. Ảnh: Ngọc Linh

Cùng với đó, nền tảng EcoStruxure for Data Centers cho phép giám sát toàn bộ hệ thống điện, làm mát và an ninh mạng theo thời gian thực. Điều này vừa đảm bảo uptime, vừa giúp theo dõi “dấu chân carbon” cho báo cáo ESG, yếu tố ngày càng quan trọng trong hợp tác quốc tế.

GPU AI tiêu thụ điện gấp nhiều lần CPU truyền thống. Deloitte ước tính một rack AI server có thể đạt tới 120 kW, thậm chí mức megawatt/rack vào năm 2030. Điều này khiến các công nghệ làm mát cũ lạc hậu, buộc phải áp dụng giải pháp tiên tiến hơn.

Dù tiềm năng lớn, nhiều chuyên gia cảnh báo nguy cơ “bong bóng TTDL”. Báo cáo của Uptime Institute (2024) cho biết tốc độ mở rộng TTDL tại châu Á có thể vượt xa nhu cầu thực tế, đặc biệt nếu hạ tầng điện và cơ chế thị trường chưa kịp thích ứng.

Ông Đồng Mai Lâm, Tổng giám đốc Schneider Electric Việt Nam và Campuchia. Ảnh: SE

Ông Đồng Mai Lâm, Tổng giám đốc Schneider Electric Việt Nam và Campuchia. Ảnh: SE

Ông Đồng Mai Lâm, Tổng giám đốc Schneider Electric Việt Nam và Campuchia cho biết: “AI không còn là công nghệ của tương lai mà hiện diện trong mọi lĩnh vực, trở thành chất xúc tác mạnh mẽ cho tiến trình số hóa và tăng trưởng bền vững. Để bắt kịp làn sóng AI, chúng ta cần một cuộc cách mạng trong xây dựng và vận hành trung tâm dữ liệu, thiết kế xây dựng tòa nhà thông minh, lưới điện thông minh."

Lưới điện thông minh - trụ cột cho hạ tầng số Không chỉ TTDL cần xanh mà cả nền kinh tế Việt Nam đang chuyển mình mạnh mẽ nhằm hướng tới mục tiêu Net Zero vào năm 2050. Cùng với việc giảm sử dụng năng lượng hóa thạch và tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo, cần triển khai lưới điện thông minh và các giải pháp công nghệ để hỗ trợ việc quản trị hệ thống. Trao đổi với MekongASEAN về quản lý lưới điện thông minh tại Việt Nam và lưới điện ASEAN, ông Đồng Mai Lâm cho hay: “Việc thống nhất lưới điện ASEAN đã được thảo luận nhiều năm. Trước đây khó hơn, nhưng ngày nay với sự phát triển của giải pháp số hóa, công việc quản lý lưới ngày càng khả thi. Ví dụ, giải pháp EcoStruxure ADMS đã được triển khai tại Thái Lan và Malaysia. Khi áp dụng tại Việt Nam, hệ thống này sẽ tương đồng với các nước, giúp việc quản trị dễ dàng hơn.”

Theo ông Lâm, những hệ thống như ADMS có thể tái cấu hình lưới và khắc phục sự cố gần như ngay lập tức, tự động, từ đó đảm bảo sự ổn định. Khi hệ thống quản lý lưới điện của Việt Nam ngang bằng với các nước trong khu vực, việc tích hợp, quản trị trong toàn bộ lưới ASEAN sẽ khả thi hơn nhiều.

Ông cũng lưu ý, lưới điện ngày nay đang chuyển từ mô hình tập trung sang lưới phân tán, với sự gia tăng của điện mặt trời mái nhà, các nguồn tái tạo vừa và nhỏ cùng hệ thống lưu trữ.

“Quản lý lưới điện phân tán không thể theo cách cũ, mà cần các hệ thống số hóa như ADMS, DERMS hay nhà máy điện ảo.” - ông Lâm cho biết.

Ông Lâm cho biết thêm, Úc là quốc gia có gần 50% hộ gia đình có điện mặt trời mái nhà, biến động công suất từng gây sự cố diện rộng. Schneider Electric đã giải quyết vấn đề này bằng cách triển khai ADMS tại Nam Úc, đã đảm bảo lưới vận hành ổn định bất chấp biến động nguồn.

“Tại Việt Nam, chúng tôi đang hợp tác cùng Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) để nghiên cứu triển khai các giải pháp tương tự, từ đó hỗ trợ quản lý lưới điện thông minh, tăng khả năng tích hợp năng lượng tái tạo và nâng cao độ tin cậy của hệ thống.” - ông Lâm chia sẻ.

Việt Nam đang bước vào giai đoạn bản lề để bứt phá trong kỷ nguyên AI. Tuy nhiên, để tận dụng cơ hội, hạ tầng số không thể chỉ dừng ở mức “lớn”, mà phải là lớn và xanh. Điều này không chỉ đảm bảo khả năng thu hút TTDL quy mô lớn toàn cầu mà còn giúp duy trì cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế số và cam kết giảm phát thải.

Ngọc Linh

Nguồn Mekong Asean: https://mekongasean.vn/trung-tam-du-lieu-xanh-tro-thanh-cot-song-cho-ha-tang-so-46328.html