Trung tướng Đồng Văn Cống: Vị tướng anh hùng đất phương Nam
Cùng với các tướng lĩnh Nguyễn Bình, Trần Văn Trà, Huỳnh Văn Nghệ, Tô Ký, Bùi Cát Vũ…, trung tướng Đồng Văn Cống (1918-2005) là một trong những vị chỉ huy có công lao to lớn trong việc xây dựng, thống nhất các lực lượng vũ trang Nam Bộ thời kỳ đầu 9 năm chống Pháp. Từ đó, cuộc đời binh nghiệp lẫy lừng của ông chủ yếu gắn liền với quê hương Bến Tre và sông nước Cửu Long trong 2 cuộc kháng chiến trường kỳ cho đến khi thống nhất nước nhà bằng đại thắng mùa Xuân năm 1975.

Từ phải sang: Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trung tướng Đồng Văn Cống, thượng tướng Hoàng Cầm, trung tướng Lê Văn Tưởng trong một dịp hội ngộ ở Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: TL
Sinh thời, mỗi lần tiếp chuyện chúng tôi đến phỏng vấn hay thăm ông, trung tướng Đồng Văn Cống bao giờ cũng tươi vui nhiệt thành. Phong thái của một chiến tướng dạn dày trận mạc vẫn toát ra từ sự giản dị, chân thành, gần gũi của một con người sinh trưởng từ miệt vườn.
Từ chỉ huy du kích Tân Hào đến anh cả lực lượng vũ trang Bến Tre
Khi Pháp nổ súng tái xâm lược Nam Bộ, Đồng Văn Cống với tư cách Bí thư Chi bộ xã Tân Hào của huyện Giồng Trôm đã xây dựng đội du kích xã ngày 12-2-1946, với 36 người trang bị vũ khí thô sơ. Chỉ trong thời gian ngắn, đội du kích đã trưởng thành vượt bậc, thu hút thanh niên các xã lân cận tham gia, với quân số lên 80 người. Đội du kích được nhân dân trìu mến gọi biệt danh “Bộ đội Tân Hào” hay “Bộ đội Ông Cống” đã lập nhiều chiến công vang dội.
Nhìn thấy Đội du kích Tân Hào lớn mạnh, Khu trưởng khu 8 Trần Văn Trà đã quyết định thành lập Chi đội 19 và phân công ông Đồng Văn Cống làm Chi đội trưởng, hoạt động ở Bến Tre và các tỉnh kề bên. Điều đặc biệt là trong Chi đội 19 của Chi đội trưởng Đồng Văn Cống có nhiều chiến sĩ quốc tế mang các quốc tịch: Pháp, Nga, Đức, Nhật, Maroc, Algeria… Đây chủ yếu là những hàng binh từ Chiến tranh thế giới thứ 2 vào nước ta đã được cảm hóa, giáo dục và tham gia chiến đấu, lập nhiều công trận.
Ngày 12-2, kỷ niệm Ngày Thành lập Đội du kích Tân Hào của chiến tướng Đồng Văn Cống, về sau đã được Tư lệnh Quân khu 9 chính thức công nhận là Ngày Truyền thống của lực lượng vũ trang Bến Tre.
Mang gươm ngang dọc bưng biền
Trung tướng Đồng Văn Cống cầm tinh con ngựa, tuổi Mậu Ngọ, sinh tháng 2-1918 trong một gia đình nông dân tại xã Tân Hào, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Thời trẻ, Đồng Văn Cống cao to, điển trai, có sức vóc mạnh hơn người, thích hoạt động xã hội, chơi thể thao, nhất là bóng đá. Tính cách phóng khoáng, giản dị, dễ gần gũi, giao thiệp rộng rãi nên ông từng là thần tượng của thanh niên cùng trang lứa quanh vùng.
Khi giặc Pháp tái chiếm Nam Bộ, Đồng Văn Cống cùng bạn bè tìm được 4 cây súng lửa, cùng giáo gươm, tổ chức trừ gian diệt tề. Ông thường mang bên mình một cây gươm cướp được của quân Nhật để chỉ huy du kích Tân Hào đánh địch, trông oai phong lẫm liệt như những chiến tướng ngày xưa trong sử sách phim ảnh. Tài năng quân sự bẩm sinh của ông có dịp thể hiện.
Chi đội 19 do ông Đồng Văn Cống chỉ huy đã đánh thắng nhiều trận, tiêu biểu như đánh đồn Lộc Thuận, chặn viện và diệt nhiều sinh lực một tiểu đoàn của Pháp ở Thới Lai, thu 100 súng, trong đó có nhiều trung liên. Mùng 2 Tết Nguyên đán năm 1947, Chi đội 19 vận động phục kích giữa ban ngày tiêu diệt một đại đội Pháp có xe thiết giáp yểm trợ, thu 150 súng, với nhiều trung liên, đại liên, bazooka, cối các loại và nhiều quân dụng. Đặc biệt, chiến công lớn nhất của Chi đội 19 mãi được lưu truyền là đánh chặn đà tiến công hùng hổ của Binh đoàn Cơ động lê dương Pháp khi chúng dự định càn quét miền Tây Nam Bộ, góp phần chặn đứng âm mưu tốc quyết tốc thắng của địch tại đồng bằng sông Cửu Long…
“Nam Bắc thống nhất một nhà, lòng tôi xúc động vô cùng!”
Năm 1954, ông Đồng Văn Cống với tư cách Ủy viên Thường vụ Khu ủy, Tham mưu trưởng Phân liên khu miền Đông do ông Trần Văn Trà làm tư lệnh, đã tham gia Ban Liên hiệp đình chiến rồi đưa quân tập kết ra Bắc. Ông được phong quân hàm đại tá, làm Tư lệnh Sư đoàn 330. Sau khi học bồi dưỡng nghệ thuật quân sự ở Trung Quốc trở về, ông được cử làm Phó tư lệnh Quân khu Hữu Ngạn, Ủy viên Thường vụ Liên khu ủy Khu III, Cục phó Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu, tham gia chỉ huy mở tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển.
Năm 1963, ông về lại chiến trường miền Nam đánh Mỹ, lần lượt được giao nhiều trọng trách: Tư lệnh Khu 8 và Khu 9, Phó tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Tư lệnh Quân đoàn Dự bị chiến lược trong Chiến dịch Hồ Chí Minh. Ông còn là Tư lệnh tiền phương Quân khu 7, dẫn đầu một cánh quân sang đập tan tập đoàn diệt chủng Pol Pot giải phóng Phnom Penh. Ông được thụ phong thiếu tướng năm 1974, trung tướng năm 1980.
Từ bưng biền xứ dừa Bến Tre và sông rạch Cửu Long Giang thời 9 năm chống Pháp, “Bộ đội Ông Cống” đã là nỗi kinh hoàng cho quân thù. Tài năng quân sự của người chỉ huy trẻ xứ dừa sớm bộc lộ, khẳng định qua từng trận đánh, chiến công. Ông là người lính đi lên vững chắc từng bước và nhanh chóng xác lập vị trí lãnh đạo cấp đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn, quân khu, góp phần thắng lợi cuộc kháng chiến 9 năm chống Pháp ở Nam Bộ. Đến những năm đánh Mỹ, cái tên Đồng Văn Cống với tư cách một trong những vị chỉ huy chủ chốt của Quân Giải phóng miền Nam, lại thường xuyên xuất hiện cả trên báo, đài chính quyền Sài Gòn. Không ít giai thoại được truyền tụng quanh cái tên ấy. Đối phương nể phục. Đồng đội và những người lính quân giải phóng tự hào về ông.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, tướng Đồng Văn Cống ở lại hậu cứ giữ quyền Chỉ huy Bộ Tư lệnh Miền kiêm Tư lệnh Quân đoàn Dự bị chiến lược. Sáng 1-5-1975, ông cùng đoàn quân chiến thắng sớm có mặt tại Dinh Độc Lập lo tổ chức chuẩn bị đón Bộ Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh và Bộ Tư lệnh Miền vào tiếp quản thành phố.
Vị tướng nhớ lại: “Nhìn cảnh quần chúng xuống đường đón mừng thành phố giải phóng, đất nước hòa bình, Nam Bắc thống nhất một nhà, lòng tôi xúc động vô cùng. Sức mạnh của quần chúng lớn lắm. Với sự thâm nhập vận động của cán bộ hoạt động thành, khi tướng Dương Văn Minh chưa tuyên bố đầu hàng thì quần chúng cách mạng đã nổi dậy làm chủ hơn 40 khu vực trong thành phố. Giải phóng Sài Gòn là sự kết hợp giữa tấn công của bộ đội chủ lực với sự nổi dậy của các lực lượng quần chúng. Nhìn từng con đường, từng góc phố, từng ngôi nhà rợp bóng cờ sao, tôi cảm thấy rất mãn nguyện. Nhiệm vụ của người lính chiến đấu vì nền độc lập tự do của Tổ quốc đã hoàn thành. Có thể nói, đó là những giờ phút đẹp nhất trong cuộc đời binh nghiệp mà tôi mơ ước”.