Trưởng lão Hòa thượng Viên Minh kể về Đại lão Hòa thượng Hộ Tông (1893-1981)

... Tôi có những kỷ niệm khi vui khi buồn, riêng với ngài Hộ Tông, vị Tổ sáng lập và cũng là vị Tăng thống đầu tiên của Giáo hội Tăng-già Nguyên thủy Việt Nam, trong lòng tôi có những ấn tượng thật đẹp đẽ, thật bình dị, nhưng cũng thật sâu đậm khó mờ phai.

LTS - Đại lão Hòa thượng Hộ Tông (1893-1981), một trong những bậc cao Tăng truyền thống Nam tông tại nước ta. Ngài cùng với chư tôn Hòa thượng được sự ủng hộ của đông đảo tín đồ, nhất là cụ Nguyễn Văn Hiếu, đã thành lập các chùa như Kỳ Viên (Bàn Cờ, 1947), Giác Quang (Chợ Lớn, 1950), Tam Bảo (Đà Nẵng, 1953), Pháp Quang (Gia Định, 1958), Bửu Long (Thủ Đức) và Tăng Quang (Huế, 1959), Định Quang (Phi Nôm, 1963), Bồ Đề (Vũng Tàu, 1969), Nguyên Thủy (Cát Lái, 1970)… cùng sự nghiệp hoằng dương Chánh pháp đồ sộ.

Ngài là bậc Thầy, ảnh hưởng đến nhiều người, trong đó có Trưởng lão Hòa thượng Viên Minh, Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh GHPGVN.

Sau đây là những ký ức của Trưởng lão Hòa thượng Viên Minh, về vị Thầy lớn, Đại lão Hòa thượng Hộ Tông.

Trưởng lão Hòa thượng Viên Minh đảnh lễ trước tượng Đại lão Hòa thượng Hộ Tông - Ảnh: F.TĐBL

Trưởng lão Hòa thượng Viên Minh đảnh lễ trước tượng Đại lão Hòa thượng Hộ Tông - Ảnh: F.TĐBL

“Tôi quả là một nhà sư may mắn, đã từng được sống với chư vị cao tăng thạc đức hàng tiền bối đầu tiên trong Giáo hội Tăng-già Nguyên thủy Việt Nam. Với ngài Giới Nghiêm, ngài Bửu Chơn, ngài Thiện Luật, ngài Tối Thắng, ngài Tịnh Sự, ngài Ẩn Lâm, ngài Giác Quang, ngài Hộ Nhẫn… tôi có những kỷ niệm khi vui khi buồn, riêng với ngài Hộ Tông, vị Tổ sáng lập và cũng là vị Tăng thống đầu tiên của Giáo hội Tăng-già Nguyên thủy Việt Nam, trong lòng tôi có những ấn tượng thật đẹp đẽ, thật bình dị, nhưng cũng thật sâu đậm khó mờ phai.

Thọ Sa-di vào năm 1964, khi được một năm, tôi thu xếp xin thầy Bổn sư là Hòa thượng Giới Nghiêm vào Sài Gòn để kịp dự khóa học đầu tiên của Đại học Vạn Hạnh. Thầy tôi lúc đó là Tăng thống Giáo hội, nên tôi được vào ở với ngài tại chùa Kỳ Viên, trụ sở Giáo hội Tăng-già Nguyên thủy Việt Nam, với điều kiện phải thọ giới Tỳ-kheo (1965) và phụ làm thị giả cho ngài thì mới được ở chung trong Tăng xá chỉ dành riêng cho Đức Tăng thống đương nhiệm và Ban Chưởng quản Giáo hội. Không bao lâu tôi được chọn làm Phó Thư ký Ban Chưởng quản, chỉ vì tôi đang ở tại trụ sở nên tiện trực văn phòng và để Đức Tăng thống sai bảo chứ chẳng phải tài cán gì. Sở dĩ tôi dài dòng như vậy chỉ để làm rõ nhân duyên tôi may mắn được diện kiến và sống gần gũi với chư tôn đức tiền bối mà thôi.

Tôi không ngờ Tổ lại bình dị đến thế, ngài chịu khó đọc sách của hàng tiểu bối viết, lại còn đọc thật kỹ nên mới khen ngợi những điểm mà ngài tâm đắc, thậm chí còn cảm ơn đã học được trong đó những điều sâu sắc. Hình như khi đọc ngài chỉ thấy pháp chứ không quan tâm người viết là ai. Và chỉ nhận xét khi đã thấy ra điều đúng điều sai.

Tổ Hộ Tông rất ít khi đến chùa Kỳ Viên ngoài những buổi họp định kỳ của Ban Chưởng quản nên tôi hiếm khi được gần gũi ngài. May là hồi đó ngài Tối Thắng và tôi thường đọc chung kammavācā nên hàng năm đến ngày lễ dâng y Kaṭhina của chùa Bửu Long, Tổ mời ngài Tối Thắng thì tôi cũng được tháp tùng dự lễ để đọc tuyên ngôn Tăng sự. Mỗi lần được đến đảnh lễ Tổ tôi rất hoan hỷ nhưng cũng không ít hồi hộp vì nghe danh Tổ vô cùng nghiêm khắc về giới luật và thường la rầy vị sư nào đến yết kiến ngài mà không có lý do chính đáng. Và chính tôi đã có lần chứng kiến Tổ la rầy Hòa thượng Thiện Ngộ, một vị cao tăng trưởng lão, chỉ vì vị này đến thăm Tổ nhân một dịp lễ mà không được mời (theo nguyên tắc giới luật, đối với hầu hết các buổi lễ, một vị sư không mời không được đến dự). Ngay cả thầy tôi là Hòa thượng Giới Nghiêm, lúc đó đang đảm nhiệm chức vụ Tăng thống, có lần đến thăm Tổ cũng bị Tổ quở trách “Tui có sao đâu mà sư bỏ phí thì giờ không lo việc Phật sự chỉ để viếng thăm vô ích như vậy!”. Thầy tôi còn bị la rầy huống chi tôi chỉ là thị giả nên tôi chỉ đứng cúi đầu khép nép, nhưng khi lấm lét nhìn lên tôi mới yên tâm nhận ra rằng Tổ nói có vẻ như rất nghiêm khắc nhưng gương mặt ngài lại tỏa ra một vẻ dịu dàng từ ái vô cùng.

Lần đầu tiên tôi học được ở Tổ hai điều: Một là cách thị chúng dù thế nào thì cũng đều phát xuất từ tấm lòng thương yêu, bi mẫn. Hai là làm việc gì cũng phải có duyên cớ chính đáng, đừng bao giờ lãng phí thời gian làm chuyện không đâu. Thảo nào nhiều Phật tử càng bị Tổ la rầy bao nhiêu lại thích đến học pháp với ngài bấy nhiêu. Họ rất nể sợ nhưng cũng rất kính yêu ngài như tình cha con ruột thịt. Về sau tôi cũng tìm thấy đức tính hiếm hoi này nơi ngài Tăng trưởng Hộ Nhẫn, vị tiền bối cuối cùng mà tôi kính ngưỡng về hạnh đầu-đà bất thối trong hàng chư tôn thạc đức của Hệ phái Phật giáo Nguyên thủy Việt Nam.

Sau năm 1975, tôi mới được dịp tiếp cận với Tổ nhiều hơn. Khi đó tôi làm Tổng Thư ký Ban Chưởng quản do ngài Tăng thống Ẩn Lâm lãnh đạo. Ngoại bát tuần, thỉnh thoảng Tổ cũng bệnh nên các vị bác sĩ đệ tử cung đón ngài về chùa Kỳ Viên ở lại ít hôm để họ dễ chăm sóc theo dõi. Tổ ở phòng số 1 dành cho Đức Tăng thống, tôi ở phòng số 2, nên được dịp yết kiến ngài trong không khí thân mật của người nhà.

Chư Tăng thành kính nhiễu tháp Tổ Hộ Tông

Chư Tăng thành kính nhiễu tháp Tổ Hộ Tông

Có lần Tổ gọi tôi qua phòng ngài, lúc này tôi không còn e sợ lấm la lấm lét như trước nữa, tôi quỳ dưới chân ngài đợi nghe lời giáo huấn, không quên nhân cơ hội xoa bóp bàn chân ngài (tôi phát hiện lòng bàn chân ngài rất đầy đến gần như phẳng). Bỗng Tổ đưa ra một cuốn sách và nói: “Con viết cuốn sách này hồi nào mà hay lắm, cho sư một cuốn để đem qua Pháp in” (thời điểm đó in kinh sách ở trong nước rất khó). Tôi ngạc nhiên, xúc động và cảm thấy mắt mình cay cay. Bởi vì cũng chính cuốn sách này khi đem dâng ngài Bửu Chơn tôi liền bị ngài mắng cho một trận, rằng: “Ông căn cứ vào đâu mà dám viết sách? Chỉ cần sai một chữ là hủy báng Phật Pháp, ông có biết không?”. Rồi ngài liệng cuốn sách qua một bên, không thèm ngó ngàng tới.

Chính vì vậy mà tôi không dám đem cuốn sách này dâng Tổ, chỉ sợ không khéo lại bị Tổ quở trách! Đó là cuốn sách tôi biên soạn vào những năm 1970 - 1971 theo yêu cầu của Chủ nhiệm Chương trình Phật giáo “Tiếng chuông chùa” trên Đài Phát thanh Sài Gòn, sau đó được Phật học viện Phật Bảo gom các bài viết lại để xuất bản thành sách có tựa đề là “Đạo Phật, con đường hạnh phúc”, hiện nay chính là cuốn “Con đường hạnh phúc” do Nhà xuất bản Tôn Giáo cấp giấy phép.

Trưởng lão Hòa thượng Viên Minh bên pháp tướng Đại lão Hòa thượng Hộ Tông tại tổ đình Bửu Long

Trưởng lão Hòa thượng Viên Minh bên pháp tướng Đại lão Hòa thượng Hộ Tông tại tổ đình Bửu Long

Tôi không ngờ Tổ lại bình dị đến thế, ngài chịu khó đọc sách của hàng tiểu bối viết, lại còn đọc thật kỹ nên mới khen ngợi những điểm mà ngài tâm đắc, thậm chí còn cảm ơn đã học được trong đó những điều sâu sắc. Hình như khi đọc ngài chỉ thấy pháp chứ không quan tâm người viết là ai. Và chỉ nhận xét khi đã thấy ra điều đúng điều sai. Tôi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, không thể nào tưởng tượng nổi ngài lại mở lời: “Cho sư một cuốn để đem qua Pháp in”. Hành động này là bài pháp vô ngôn thân giáo mà chính sự bình dị hoàn toàn vắng bóng ý niệm ngã nhân, không kiêu kỳ cũng không hề tỏ ra khiêm tốn của ngài đã tưới lên tôi dòng pháp ngọt ngào thấm tận tủy xương. Về điểm này thì ngài Bửu Chơn cũng có thiện ý đưa ra lời khuyến cáo rất chính xác để tôi đề cao cảnh giác, nhưng ngài không y cứ trên nội dung cuốn sách mà chỉ dựa trên một định kiến có sẵn, khiến tôi không thấy ra cái gì đúng cái gì sai một cách rõ ràng cụ thể”.

(Trích Thắp lửa tâm linh, Minh Đức Triều Tâm Ảnh)

Nguồn Giác ngộ: https://giacngo.vn/truong-lao-hoa-thuong-vien-minh-ke-ve-dai-lao-hoa-thuong-ho-tong-1893-1981-post77097.html