Truy xuất nguồn gốc: Thách thức từ 'rối loạn' ngôn ngữ dữ liệu
Mặc dù nhiều mô hình ứng dụng công nghệ truy xuất nguồn gốc đã được triển khai, song hiệu quả thực tế vẫn còn hạn chế. Nguyên nhân đến từ việc áp dụng công nghệ này rời rạc, thiếu đồng bộ tiêu chuẩn dữ liệu, không liên thông với nhau...

Hiện nay, cơ bản dữ liệu truy xuất nguồn gốc được doanh nghiệp chủ động nhập.
Tại diễn đàn “Phát triển, ứng dụng công nghệ chiến lược cho chuyển đổi số và truy xuất nguồn gốc: Đòn bẩy kiến tạo tương lai số cho Việt Nam hội nhập” do Báo Điện tử Tiếng nói Việt Nam (VOV) phối hợp với Viện Công nghệ thông tin (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) tổ chức ngày 19/11, ông Phạm Mạnh Hùng, Phó Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam, nhấn mạnh chuyển đổi số đang mở ra kỷ nguyên phát triển mới cho kinh tế - xã hội Việt Nam.
Việc đẩy mạnh ứng dụng các công nghệ chiến lược như AI, Blockchain, Big Data, Cloud Computing và truy xuất nguồn gốc thông minh là yêu cầu tất yếu và là đòn bẩy giúp Việt Nam bứt phá, hội nhập sâu vào nền kinh tế số toàn cầu.
VẪN TÌNH TRẠNG QR "TỰ CHẾ", KHÔNG THEO CHUẨN NÀO
Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, được xác định là “chìa khóa vàng” giúp các bộ, ngành, địa phương xây dựng hạ tầng dữ liệu quốc gia, phát triển các nền tảng số “Make in Vietnam” và thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện.
Trong tinh thần đó, truy xuất nguồn gốc bằng công nghệ số đóng vai trò then chốt để minh bạch hóa chuỗi cung ứng, bảo vệ người tiêu dùng, nâng cao giá trị, chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam trên thị trường thế giới.
Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Đức Lê, Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước, Bộ Công Thương, việc áp dụng hệ thống tiêu chuẩn quốc tế GS1 (dùng để xác định và quản lý thông tin sản phẩm thông qua mã số và mã vạch) vẫn chưa đồng bộ. Sự thiếu đồng bộ này dẫn đến cùng một chuỗi cung ứng lại có nhiều “hệ ngôn ngữ dữ liệu” khác nhau.
Ông Lê chỉ rõ, việc "rối loạn" ngôn ngữ dẫn tới khi chuyển vào hệ thống mang tầm quốc gia, hoạt động chuyển đổi, nạp dữ liệu và đảm bảo tính duy nhất của định danh sản phẩm gặp khó khăn. Ngoài ra, công nghệ, việc chuyển đổi – map (cấu trúc) dữ liệu và đảm bảo tính duy nhất của định danh cũng là thách thức lớn khi muốn tích hợp ở quy mô quốc gia.
Ở tầng doanh nghiệp, đang tồn tại song song hai hệ thống: Hệ thống dùng GS1 đầy đủ (thường là các doanh nghiệp lớn, xuất khẩu) và hệ thống dùng mã tự sinh, QR “tự chế”, không theo chuẩn nào, dữ liệu lưu ở server tư nhân, gây khó liên thông.
Đồng tình, ông Nguyễn Bảo Trung, Phó Cục trưởng Cục Chuyển đổi số, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cho rằng dữ liệu đầu vào không theo một quy định kỹ thuật nào, mỗi nơi làm một kiểu. Hiện nay, cơ bản dữ liệu được doanh nghiệp chủ động nhập, nhưng sự tham gia xác thực của các cơ quan quản lý nhà nước đối với những dữ liệu này lại rất ít. Điều này làm giảm giá trị và chất lượng của thông tin truy xuất nguồn gốc.
Việc liên thông và sử dụng dữ liệu lẫn nhau giữa các hệ thống, giữa cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp rất khó khăn. Rất nhiều hệ thống truy xuất nguồn gốc được xây dựng độc lập, không có tiêu chuẩn, quy chuẩn nên không kết nối được, gây dữ liệu không đồng nhất và tốn kém chi phí. Hiện có đến mấy chục hệ thống truy xuất nguồn gốc đã tồn tại nhưng không liên thông với nhau.
Bên cạnh đó, các vùng trồng, vùng nuôi và các cơ sở sản xuất kinh doanh hiện tại chưa được định danh hoặc chưa có mã số đầy đủ, gây khó khăn cho việc triển khai hệ thống. Sản xuất còn manh mún, nhỏ lẻ, chủ yếu là các hộ cá thể. Chi phí để duy trì hệ thống và cập nhật dữ liệu cũng là vấn đề lớn đối với các hợp tác xã và hộ sản xuất nhỏ.

Các diễn giả trao đổi tại diễn đàn.
Mặt khác, mỗi thị trường (EU, Mỹ, Trung Quốc,...) lại có yêu cầu kỹ thuật khác nhau về truy xuất nguồn gốc. Việc triển khai một hệ thống truy xuất nguồn gốc thống nhất trở nên khó khăn và cần phải giải quyết để tái sử dụng dữ liệu và đồng bộ giữa các hệ thống.
HOÀN THIỆN HÀNH LANG PHÁP LÝ, TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ "BỘ LỌC" CỦA BỘ, NGÀNH
Để giải quyết các thách thức trên, ông Nguyễn Bảo Trung đề xuất Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần tập trung xây dựng các quy định kỹ thuật, cơ sở dữ liệu chuyên ngành để kết nối, chia sẻ với các hệ thống truy xuất nguồn gốc và Trung tâm Dữ liệu Quốc gia, cùng với việc xây dựng các quy định về giấy phép.
"Sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên là bắt buộc. Cơ quan quản lý nhà nước phải hoàn thiện các cơ sở dữ liệu chuyên ngành và giấy phép để tham gia xác thực thông tin, dữ liệu trong chuỗi cung ứng", ông Trung nhấn mạnh; đồng thời cho rằng thông tin truy xuất nguồn gốc chỉ có giá trị và chất lượng cao khi có sự xác thực của cơ quan nhà nước. Doanh nghiệp công nghệ cung cấp các giải pháp về công nghệ. Hộ nông dân, doanh nghiệp sản xuất cần cập nhật dữ liệu.
Thông tin thêm, ông Trung cho biết sắp tới sẽ có Nghị định của Chính phủ quy định về hoạt động định danh và truy xuất nguồn gốc sản phẩm hàng hóa. Nghị định này sẽ tạo hành lang pháp lý rõ ràng, quy định trách nhiệm cho từng bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp tham gia vào chuỗi truy xuất nguồn gốc.
Để kết nối các hệ thống truy xuất nguồn gốc, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ xây dựng và công bố các quy định kỹ thuật và cấu trúc của các cơ sở dữ liệu chuyên ngành (như mã số vùng trồng, vùng nuôi, quá trình sản xuất) làm căn cứ xây dựng và kết nối chia sẻ dữ liệu. Bộ cũng sẽ hoàn thiện các cơ sở dữ liệu chuyên ngành về trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản kiểm ngư trong năm 2025 - 2026 và xây dựng cơ sở dữ liệu về các giấy phép để chia sẻ, phục vụ các hệ thống truy xuất nguồn gốc.
Ở góc độ phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại, ông Đỗ Hồng Trung, Phó Chánh Văn phòng thường trực Ban chỉ đạo 389 Quốc gia, nhấn mạnh cần có cơ chế phối hợp và quan trọng là sự chia sẻ dữ liệu giữa các lực lượng chức năng. Ông cũng cho rằng đã đến lúc cơ quan quản lý nhà nước phải đứng ra làm công tác truy xuất. Các bộ ngành theo lĩnh vực trách nhiệm được phân công sẽ là đầu mối để truy xuất, thay vì do các công ty truy xuất như hiện nay.
Liên quan đến mô hình nền tảng dữ liệu quốc gia, ông Trung cho rằng đây không phải là nơi doanh nghiệp tự đẩy dữ liệu về, mà phải thông qua các bộ lọc là các bộ ngành. Các bộ ngành sẽ đưa dữ liệu về trung tâm dữ liệu của Bộ, sau đó sử dụng các công nghệ như AI, Big Data để chuyển dữ liệu sạch, sống, đầy đủ về Trung tâm dữ liệu quốc gia.
Theo ông Trung, mô hình này giúp giải quyết bài toán quy mô dữ liệu quá lớn cho cả đất nước, không thể tập trung hết vào một nơi, mà phải phân tán (mỗi bộ ngành là một đầu mối truy xuất). Doanh nghiệp sẽ thông qua các bộ ngành để gửi dữ liệu lên, để được định danh và truy xuất. Điều này sẽ giúp giải quyết vướng mắc và thống nhất được tiêu chuẩn cơ sở.
Hiện nay, theo chỉ đạo của Chính phủ, các bộ ngành đã xây dựng Khung kiến trúc số và Khung cơ sở dữ liệu. Từ các khung này, các bộ ngành sẽ xây dựng các nền tảng riêng, có thể ứng dụng Blockchain hoặc công nghệ phù hợp, nhưng phải dựa trên một tiêu chuẩn chung. Có tiêu chuẩn chung sẽ dễ dàng liên thông được với nhau, có tiếng nói chung. Khi dữ liệu liên thông, truy xuất nguồn gốc sẽ trở thành một phần nhỏ và dễ dàng hơn.












