Từ 'buôn có bạn, bán có phường' nghĩ về đạo đức doanh nhân

Người Việt ngày xưa không coi trọng nghề buôn, nên không quá xuất sắc trong việc buôn bán như người Trung Hoa, Nhật Bản… nhưng khi họ quyết tâm buôn bán thì lại rất gắn kết thành phường, hội. Sự tương trợ đó cũng có cả cái hay và cái dở.

Ảnh trong bài: Trung tâm lưu trữ quốc gia.

Ảnh trong bài: Trung tâm lưu trữ quốc gia.

Làm ăn phải có bầu bạn

Việc buôn bán trong xã hội phong kiến nước ta không được trọng vọng, nên những người làm nghề này ít khi hoạt động đơn lẻ, họ phải tụ họp thành cộng đồng riêng “buôn có bạn, bán có phường” vì “Làm ăn không hội, không phường/Khác nào đơn độc trên đường đi xa”. Có cộng đồng để trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, thống nhất về giá trị hàng hóa “có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu” trong buôn bán là điều hay, lẽ phải.

Chúng ta thấy ở Hà Nội có những phố hàng, có những phường, hội được hình thành, tạo thành không gian đặc trưng buôn bán ở Kẻ Chợ xưa. Theo quan sát của nhà nghiên cứu người Pháp Hocquard thì, mục đích ban đầu của các phường, hội là tạo thuận lợi cho những kiều dân người Hoa mới chuyển đến đây ổn định nơi ăn, chốn ở.

“Những người này được giúp tìm nơi ở, cung cấp những thông tin cần thiết về địa bàn mới đến, các nguồn cung cấp và nhu cầu thị trường, thậm chí còn được cho vay tiền… Các phường, hội còn có vai trò khác không kém phần quan trọng: khi một số thành viên nhận được hợp đồng cung cấp một lượng hàng lớn đòi hỏi phải huy động một khoản vốn lớn, tất cả các thành viên khác sẽ cùng hùn vốn để có được khoản tài chính cần thiết. Đến khi kết thúc thương vụ, lợi nhuận sẽ được phân chia công bằng cho tất cả những thành viên đã cho vay theo tỷ lệ hùn vốn của mỗi người” (Trích “Một chiến dịch ở Bắc Kỳ” của tác giả Hocquard).

Theo PGS.TS Phạm Văn Tình - chuyên gia về ngôn ngữ học, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Việt Nam học, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam học: “Buôn có bạn, bán có phường, câu tục ngữ nhắc nhở các doanh gia là “làm ăn, buôn bán thì phải biết hợp tác với nhau trong mọi hoàn cảnh”. Chớ vì cái lợi nhỏ nhoi, trước mắt mà “bỏ đàn, ăn mảnh” thì chẳng chóng thì chầy, bạn sẽ tự chuốc lấy những hậu quả nhãn tiền. Đấy là phương châm làm ăn và cũng là một nét đẹp trong công việc kinh doanh nữa”.

“Buôn có bạn, bán có phường/Làm ăn có xóm, có làng mới vui…” - lời các cụ nói ngày xưa chí phải. Nhưng nếu chỉ vui không thôi thì chắc hẳn người ta chẳng lao tâm khổ tứ vì cái nghề buôn bán làm gì đâu. Bởi, buôn là “mua để bán lại lấy lãi”, “buôn một lãi mười” mà. PGS.TS Phạm Văn Tình cho rằng nghề buôn, lấy được tiền của thiên hạ đâu phải dễ. Người khôn của khó, thương trường thực sự là chiến trường. Người làm nghề buôn bán phải có sự đầu tư nhiều tiền của, công sức, tâm huyết và cả chất xám.

“Câu tục ngữ “Buôn có bạn, bán có phường”, với vẻn vẹn 6 âm tiết, hiệp vần với nhau thành hai vế đối rất chỉnh: buôn/bán, bạn/phường. Buôn bán thì rõ rồi. Còn phường là một từ đa nghĩa. Theo cách dùng hiện nay, phường là “đơn vị hành chính ở đô thị, dưới cấp quận” và phường cũng chỉ phường bạn, phường hội, tức là những bạn cùng nghề làm ăn. Họ liên kết với nhau thành các nhóm, các hội lớn nhỏ và hỗ trợ nhau trong công việc buôn bán kinh doanh.

Ngày xưa, ta thấy có rất nhiều phường: phường vải, phường hàng xáo (gạo thóc...), phường cá mắm, phường bát đĩa, phường mây tre, phường đồ đồng, phường phấn son... Họ có thể gần nhau về không gian (ngồi cùng dãy, cửa hàng cùng phố...) nhưng quan trọng nhất là chung chí hướng làm ăn. Dân buôn bán luôn tôn trọng và tôn trọng tuyệt đối những lề thói, luật lệ, tuy bất thành văn nhưng rất chặt chẽ, nghiêm khắc của phường hội”, PGS.TS Phạm Văn Tình bày tỏ.

Phường hội, bầu bạn trong buôn bán là để thống nhất về giá cả. Ví như trong khu phố này, giá bán một bát phở phải giống nhau, một cái áo cùng chất liệu phải đồng nhất giá. Ai nào đó dám tự tiện tranh khách bán phá giá sẽ bị cả hội tẩy chay, bị “bao vây cấm vận” cả đầu vào lẫn đầu ra và ngay lập tức, sẽ bị loại khỏi cuộc chơi.

Trong cái cộng đồng đó, nếu một người làm ăn buôn bán thua lỗ, xui, hay hàng hóa không may bị hỏng, hội xúm vào hỗ trợ “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”. Việc “cùng hội cùng thuyền” sẽ chia sẻ cơ hội và cách thức hành nghề buôn. Phường hội, bầu bán trong buôn bán là một tổ chức “nghiệp đoàn” rất hữu hiệu trong bất cứ trường hợp nào.

Theo PGS.TS Phạm Văn Tình, trong thời đại thương mại phát triển vượt bậc như hiện nay, việc “Buôn có bạn, bán có phường”, vẫn trong cần thiết để giúp nhau trong hoạn nạn cũng như lúc phát đạt. “Câu tục ngữ nhắc nhở các doanh gia là “làm ăn, buôn bán thì phải biết hợp tác với nhau trong mọi hoàn cảnh”. Chớ vì cái lợi nhỏ nhoi, trước mắt mà “bỏ đàn, ăn mảnh” thì chẳng chóng thì chầy, bạn sẽ tự chuốc lấy những hậu quả nhỡn tiền. Đấy là phương châm làm ăn và cũng là một nét đẹp trong công việc kinh doanh nữa”.

Vì sao nghề buôn bị “coi khinh”?

Trong Việt Nam phong tục, Phan Kế Bính đưa ra nhiều nhận định đầy thở than về nghề buôn ở nước ta. Ông cho rằng dân ta vẫn quen “buôn thúng, bán mẹt”, buôn bán nhỏ lẻ, không có tầm cao hay ra biển lớn. Những thương vụ lớn đều do người ngoại quốc nắm giữ, nên người Việt không giàu, mà quanh năm vẫn lo ăn, lo mặc… Lý do đó theo ông là dân ta “khinh người làm ăn buôn bán” cho rằng “buôn gian, bán lận”, mà chú trọng sự mê làm quan lại, chính trị, để vừa thoát nghèo và có tiếng nói quyền lực.

Nhà nghiên cứu Phan Kế Bính đưa ra nhiều lý do việc buôn bán của ta không được thịnh vượng bằng các nước. Ông đã chỉ ra 5 yếu tố khiến nghề buôn nước nhà “tủn mủn, nghèo nàn”.

Ông kể ra rằng, phần nhiều dân ta mê công danh mà khinh thường nghề buôn bán. Rồi khi có chức danh, quan tước thì lo hưởng thụ: ngắm trăng, uống trà, làm thơ, câu cá… không thích làm chủ cửa hàng, cửa hiệu. Thú vui của nam nhi mê sống nhàn, nên việc buôn bán dành cho đàn bà “Té ra bao nhiêu công việc buôn bán phần nhiều ở trong tay người đàn bà và ở trong bọn mấy chú lái thì mong sao mà mở mang to ra được” (Phan Kế Bính).

Đọc bài thơ “Thương vợ” của cụ Tú Xương: “Quanh năm buôn bán ở mom sông/Nuôi đủ năm con với một chồng…” hay “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm có câu “Những cô hàng xén răng đen/Cười như mùa thu tỏa nắng…” có thể thấy chuyện đàn bà xứ ta xưa làm nghề buôn bán vẫn chủ yếu trong gia đình, nhưng họ vẫn mang tư duy buôn bán nhỏ lẻ, vun vén nhọc nhằn cho gia đình.

Cụ Phan Kế Bính cho rằng dân ta không có máu phiêu lưu như dân Trung Hoa, Nhật Bản hay Tây Âu. Người Hoa, người Nhật đã sang Hà Nội, Hội An, Sài Gòn làm ăn buôn bán từ thế kỷ 15, 16, dân ta vẫn quanh quẩn sau lũy tre làng: “Vì nhát tính không dám đi xa. Người nhờ có dấn vốn chỉ ngồi phèn phệt một xó, cái gì cũng chờ người ta mang đến tận nơi, mua tranh bán cướp với nhau, chớ một bước cũng không dám dời đi đâu cả. Ví dụ có chăng nữa thì chẳng qua Hà Nội xuống Hải Phòng, Sơn Tây xuôi Nam Định đã cho là xa xôi, ai bần cùng lắm mới lên đến Lào Cai, Yên Bái, hoặc vào đến Bình Định, Sài Gòn. Còn chỉ những lo nước độc, ma thiêng, hoặc là phong ba bất trắc mà quanh năm chí tối bán quần, buôn quanh”. (Trích “Nghề buôn bán - Việt Nam Phong tục” của Phan Kế Bính).

Ngoài ra, cụ Phan Kế Bính cho rằng dân ta làm nghề buôn ít người “có lòng thành thật”, lưu manh, giả dối thì nhiều, hay nói thách cao “để lừa những người khờ dại, nhờ cái sự sơ ý của người ta mà kiếm ăn làm giàu, làm có, thì cái tài ấy cũng đáng khinh bỉ lắm”.

Việc làm ăn buôn bán phải có tầm nhìn xa, rộng, biết chịu đựng lúc thua lỗ, khó khăn nhưng dân ta lại “không có lòng kiên nhẫn. Phàm là việc gì, có phải dễ dàng mỗi chốc mà thành hiệu ngay được đâu. Ta buôn bán động hơi thấy lỗ vốn một chút hoặc hơi vấp váp điều gì thì đã ngã lòng ngay. Hoặc người đóng cửa trả môn bài, hoặc người xin thôi cổ phần, làm cho các việc có cơ tấn tới mà cũng phải tan không thành nữa”.

Một cái thói mà dân buôn hay mắc phải cho đến tận bây giờ là “có tý tiền hay khoe mẽ, coi mình là đại gia, ăn nói khệnh khạng, vung tiền như rác, rồi thích dạy đời, nói chuyện đạo lý… Cụ Phan Kế Bính cho rằng đó là thói “ưa phù hoa, lấy sĩ diện với ngoài. Ai buôn bán hơi được kha khá phát tài, đã vội vàng đổi ngay bộ dáng cũ. Cửa nhà trang sức rực rỡ, coi ra dáng đại phú gia rồi. Đi đâu thì quần nọ áo kia, xe xe ngựa ngựa, nghênh ngang lên mặt tưởng không ai bằng ta, nhất là dư của mà mua được tiếng ông hàn, ông bá thì lại coi ra dáng nữa…”.

Cái thói trọc phú, khoe khoang đó khiến cho những kẻ xuất phát điểm thấp, buôn bán trúng mánh, lại tự đắc, không biết mình là ai. Cụ Phan Kế Bính cho rằng “chí khí nông nổi như vậy nên đường buôn bán suy nhược, trách nào mà bao nhiêu lợi quyền chẳng vào tay người khác”. Cái thói này bây giờ dân gian hay có câu “bán đất mà giàu” lại phát triển rầm rộ. Khiến nhiều đại gia giàu xổi, đi xe sang, suốt ngày hút xì gà, uống rượu Tây, khoe mẽ trên mạng xã hội, xây dựng thương hiệu ảo… nhưng được vài năm bị cơ quan chức năng điều tra, xác minh, lật tẩy lại ra là những kẻ lừa đảo, gọi vốn, buôn gian bán lận, sản xuất hàng giả, tiền toàn đi vay ngân hàng, cầm cố… Kết cục cũng chả ra gì!

Chuyện làm ăn buôn bán, phường hội, bầu bạn ngày xưa, đến bây giờ vẫn là bài học lớn cho thương nhân nhất là trong bối cảnh Chính phủ đang chú trọng nền kinh tế tư nhân, coi họ là trọng tâm để phát triển nước nhà.

Tuấn Ngọc

Nguồn Pháp Luật VN: https://baophapluat.vn/tu-buon-co-ban-ban-co-phuong-nghi-ve-dao-duc-doanh-nhan-post551108.html