Tư duy lập pháp về giáo dục không ngừng vận động, giữ vững triết lý 'vì dân'
Chia sẻ về các chủ trương, chính sách phát triển giáo dục trong 80 năm qua để tạo dựng hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất, hoàn chỉnh, TSKH. Phạm Đỗ Nhật Tiến cho rằng, sự nhất quán và đúng đắn được duy trì là nguồn gốc để tạo điều kiện cho giáo dục Việt Nam có những bước phát triển lớn.
TSKH. Phạm Đỗ Nhật Tiến cho rằng chìa khóa duy trì sự nhất quán và đúng đắn đó là sự hiện diện của một triết lý giáo dục xuyên suốt với hạt nhân cơ bản nhất là: Giáo dục của dân, do dân và vì dân.
Triết lý này đã tạo ra kim chỉ nam cho việc đổi mới tư duy, hành động để giáo dục luôn phát triển tương ứng với yêu cầu phát triển đất nước. Xung quanh hạt nhân cốt lõi đó, là sự bổ sung bằng các quan điểm chỉ đạo của Đảng tại từng Đại hội và đặc biệt là tại các Hội nghị Trung ương chuyên đề về giáo dục. Các quan điểm cơ bản này đã tạo cho triết lý giáo dục Việt Nam sức sống để thích ứng với yêu cầu của sự đổi mới.
“Trong nghiên cứu, chúng tôi gọi tập hợp này là sự đổi mới tư duy của Đảng về giáo dục. Cùng với sự đổi mới tư duy của Đảng là sự đổi mới tư duy trong quản trị nhà nước về giáo dục mà có liên quan tới Quốc hội”, TSKH. Phạm Đỗ Nhật Tiến nhận định.

TSKH. Phạm Đỗ Nhật Tiến chia sẻ tại Tọa đàm “80 năm thành tựu giáo dục và dấu ấn lập pháp”. Ảnh: Mạnh Hưng
Đặc trưng cơ bản trong 80 năm qua, đặc biệt là trong 40 năm Đổi mới là việc chuyển đổi từ tư duy quản trị chủ yếu dựa trên mệnh lệnh hành chính sang tư duy quản trị dựa trên pháp luật. Đây là một quá trình phát triển, trong đó có sự vận động không ngừng của tư duy lập pháp về giáo dục.
Theo TSKH. Phạm Đỗ Nhật Tiến, ở góc độ vĩ mô, tư duy lập pháp suốt thời gian qua luôn có sự vận động để phù hợp với yêu cầu phát triển của giáo dục.
Luật Giáo dục 1998 là luật khung, bởi bối cảnh đất nước khi đó là những năm đầu của công cuộc đổi mới giáo dục, còn nhiều rào cản phải tháo gỡ trong việc vận hành một nền giáo dục xã hội chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế thị trường. Thời điểm ấy, thực tiễn chưa được tổng kết đủ đầy để có thể xây dựng ngay một bộ luật giáo dục chi tiết hoàn chỉnh.
Luật Giáo dục 2005, sửa đổi Luật Giáo dục 1998, mang đặc trưng hoàn toàn mới, là luật chi tiết. Bối cảnh bấy giờ, nước ta đã bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng. Những điều kiện khách quan này cho phép và đòi hỏi Việt Nam phải có những quy định chi tiết trong luật. Vì thế, Luật Giáo dục 2005 đã quy định cụ thể, chi tiết nhằm bảo đảm hành lang pháp lý vững chắc cho sự phát triển của giáo dục.
Luật Giáo dục đại học năm 2012 và Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014 cũng ra đời theo hướng luật chi tiết, tạo khung pháp lý đầy đủ, thuận lợi để giáo dục nghề nghiệp và đại học vận hành thông suốt. Điều này đáp ứng yêu cầu cấp bách của giai đoạn đó là thực hiện đột phá chiến lược về phát triển nhanh nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao.
"Có thể thấy, Việt Nam có một giai đoạn dài ưu tiên luật chi tiết để phù hợp với từng bước đi của đất nước", TSKH. Phạm Đỗ Nhật Tiến nhận định.

Tư duy lập pháp trong lĩnh vực giáo dục liên tục được đổi mới, phù hợp với từng bước phát triển của đất nước. Ảnh minh họa
Tuy nhiên, từ năm 2019 đến nay, đặc biệt trong quá trình xây dựng Luật Nhà giáo, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học (sửa đổi), Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi), đã có bước chuyển căn bản về tư duy lập pháp, chuyển từ luật chi tiết sang luật khung.
Đặc trưng của tư duy luật xây dựng luật hiện nay là bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa yêu cầu quản lý và yêu cầu kiến tạo phát triển. Chẳng hạn, Luật Nhà giáo không còn tập trung quá mức vào việc quản lý, thay vào đó tạo ra khung pháp lý để phát triển đội ngũ nhà giáo; tập trung nâng cao vị thế, đổi mới chính sách, chế độ đãi ngộ để nhà giáo yên tâm công tác, yêu nghề và tâm huyết với nghề.
Việc xây dựng luật khung nhằm bảo đảm hệ thống thể chế đủ linh hoạt, giúp ngành giáo dục Việt Nam ứng phó kịp thời với những biến động cực kỳ nhanh chóng của môi trường kinh tế - xã hội hiện nay.
“Có thể khẳng định, suốt hành trình 80 năm qua, đặc biệt trong những thập kỷ gần đây, tư duy lập pháp của chúng ta đã vận động không ngừng nghỉ. Đó là quá trình tự làm mới, tự hoàn thiện để vừa giữ vững được triết lý 'vì dân', vừa mở ra không gian sáng tạo, đột phá cho giáo dục nước nhà. Những thành tựu về mặt thể chế này chính là bệ phóng vững chắc nhất để chúng ta tin tưởng vào những bước tiến mới của giáo dục Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, TSKH. Phạm Đỗ Nhật Tiến tin tưởng.











