Từ gian khó đến khát vọng hùng cường
Kỷ niệm 80 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là dịp để nhìn lại hành trình kinh tế đầy thăng trầm, khẳng định sức mạnh đổi mới, ý chí vươn lên của dân tộc và quyết tâm hiện thực hóa khát vọng phát triển nhanh, bền vững trong Kỷ nguyên mới.
Hành trình từ chiến tranh đến thống nhất
Tháng 9/2025, đất nước kỷ niệm 80 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, dấu mốc lịch sử để mỗi người Việt nhìn lại chặng đường đã qua, tự hào về thành tựu to lớn, đồng thời rút ra bài học quý giá cho tương lai.

Thủ đô Hà Nội - đầu tàu dẫn dắt, lan tỏa phát triển kinh tế. Ảnh: Phạm Hùng
Theo TS Nguyễn Bích Lâm, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê (nay là Cục Thống kê), tám thập kỷ phát triển kinh tế là bản trường ca của bản lĩnh, trí tuệ, ý chí đổi mới và sức mạnh đại đoàn kết. Đó là hành trình chuyển hóa tư duy lãnh đạo, hoàn thiện thể chế, quản trị Quốc gia và hội nhập sâu rộng với thế giới. Thời kỳ kháng chiến và kiến quốc, miền Bắc vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa chi viện cho miền Nam, áp dụng mô hình kế hoạch hóa tập trung, cải tạo nông nghiệp, quốc hữu hóa công thương nghiệp. Trong khi đó, miền Nam theo cơ chế thị trường, phát triển hạ tầng và đô thị lớn.
Dù khác mô hình, cả hai miền đều đối mặt với nền kinh tế nghèo nàn, dựa chủ yếu vào nông nghiệp tự cung tự cấp và viện trợ nước ngoài. Sau thống nhất, đất nước tiếp tục chịu tác động nặng nề từ chiến tranh biên giới và cấm vận quốc tế, kinh tế kiệt quệ, hàng hóa khan hiếm, lạm phát phi mã. Chính sách quản lý duy ý chí, bao cấp toàn diện đã triệt tiêu động lực thị trường, khiến ngân sách thâm hụt kéo dài, bù đắp bằng phát hành tiền. Cải cách “Giá - Lương - Tiền” năm 1985 không cứu được tình hình, ngược lại khiến lạm phát vọt lên 453,5% năm 1986, đời sống Nhân dân vô cùng khó khăn. Trước khủng hoảng trầm trọng, Đại hội VI của Đảng đã mở ra công cuộc đổi mới toàn diện, trọng tâm là đổi mới kinh tế. Đây là bước ngoặt mang tính sống còn, chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cải cách thể chế kinh tế: thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần, đổi mới quản lý DN Nhà nước, ban hành các luật nền tảng như Luật Đầu tư nước ngoài, Luật DN. Đổi mới nông nghiệp: Khoán 10 trao quyền sử dụng đất và sản phẩm cho nông dân, tạo động lực sản xuất. Cải cách tài khóa – tiền tệ: Xóa bỏ bao cấp, thiết lập ngân sách – ngân hàng hai cấp, vận hành theo cơ chế thị trường. Mở cửa hội nhập: Gia nhập WB, IMF, ADB (1993), vào APEC (1998), ký Hiệp định thương mại Việt – Mỹ (2000), tạo đà gia nhập WTO năm 2007. Kết quả, kinh tế thoát khỏi khủng hoảng, tăng trưởng cao: GDP bình quân giai đoạn 1986-1990 đạt 4,4%, giai đoạn 1991-2000 đạt 7%; siêu lạm phát được đẩy lùi, an ninh lương thực bảo đảm, xuất khẩu tăng mạnh, thu hút hơn 40 tỷ USD FDI.
Bứt phá hội nhập và tăng trưởng
Từ năm 2001 đến năm 2020, Việt Nam đã tiếp tục hội nhập sâu rộng, trở thành thành viên năng động của APEC, ASEAN, Liên Hợp Quốc và ký hàng loạt FTA thế hệ mới. Kim ngạch xuất khẩu năm 2020 đạt 282,6 tỷ USD, gấp gần 20 lần so với năm 2000. GDP bình quân 20 năm đạt 6,58%/năm; GDP bình quân đầu người năm 2020 đạt 2.779 USD, gấp 5,57 lần năm 2000. Kinh tế chuyển dần sang chiều sâu, ứng dụng công nghệ, nâng cao năng suất; khu vực ngoài Nhà nước và FDI trở thành động lực chính. Tuy vậy, nền kinh tế vẫn đối mặt với không ít thách thức: thể chế thị trường chưa hoàn thiện, hạ tầng thiếu đồng bộ, năng suất lao động thấp, đổi mới sáng tạo chưa là động lực chủ lực. Yêu cầu cải cách mạnh mẽ, toàn diện trở nên cấp bách.
Trong bối cảnh địa chính trị phức tạp, toàn cầu hóa tái định hình, dịch Covid-19 gây cú sốc lớn, Việt Nam chịu áp lực gián đoạn chuỗi cung ứng, suy giảm thu nhập, tổng cầu yếu. Hạn chế nội tại, từ rào cản tư duy, thể chế chưa đồng bộ, đến môi trường kinh doanh thiếu minh bạch càng bộc lộ rõ. Chính sách vĩ mô trở thành “mỏ neo ổn định”, giúp kiểm soát lạm phát, duy trì niềm tin thị trường và tạo nền tảng phục hồi. Song để bứt phá, Việt Nam cần đổi mới lần thứ hai, đổi mới đồng bộ chính trị và kinh tế, tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản trị Quốc gia.
Chủ trương cải cách hệ thống chính trị đồng bộ với đổi mới kinh tế đang được đẩy mạnh, với “Bộ tứ trụ cột chiến lược” nhằm: tạo môi trường thể chế ổn định, minh bạch, vận hành theo logic thị trường hiện đại. Đột phá năng suất, phát triển mô hình tăng trưởng mới. Thu hút nguồn lực toàn cầu, mở rộng không gian phát triển. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, sáng tạo. Song song, việc sắp xếp lại địa giới và đơn vị hành chính nhằm gắn kết chặt chẽ giữa không gian kinh tế và quản lý Nhà nước, khơi thông nguồn lực phát triển địa phương.
80 năm qua, đổi mới không chỉ là lựa chọn, mà là quy luật tồn tại của dân tộc. Đổi mới vì dân, do dân, dựa trên khoa học và thực tiễn, để giữ vững độc lập, chủ quyền và hướng tới sự hùng cường. Thành quả ấn tượng: GDP từ 8 tỷ USD năm 1986 lên 476,3 tỷ USD năm 2024; tỷ lệ hộ nghèo từ 58% năm 1993 xuống dưới 3% năm 2024; tầng lớp trung lưu chiếm 13% dân số năm 2022. Như TS Nguyễn Bích Lâm nhấn mạnh, nếu đổi mới 1986 là bước ngoặt sống còn để cứu nền kinh tế, thì đổi mới 2025 và các năm tiếp theo là điều kiện tiên quyết để Việt Nam hiện thực hóa khát vọng trở thành nước phát triển vào năm 2045.
Nhìn lại chặng đường đã qua, từ những ngày gian khó, kinh tế Việt Nam đã vươn mình mạnh mẽ, khẳng định vị thế trên trường quốc tế. Trong Kỷ nguyên mới, với những cơ hội và thách thức đan xen, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục giữ vững vai trò lãnh đạo, dẫn dắt nền kinh tế phát triển bền vững vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Từ một nền kinh tế nông nghiệp thuộc địa, nghèo nàn, lạc hậu, bị tàn phá bởi chiến tranh. Việt Nam đã từng bước vượt qua khó khăn, tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, đang tiến tới xây dựng nền kinh tế thị trường đầy đủ, hội nhập quốc tế sâu rộng, đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Những thành quả này không chỉ khẳng định con đường phát triển đúng đắn mà còn là nền tảng vững chắc để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc vào năm 2045.
TS. Nguyễn Bích Lâm, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê
Nguồn KTĐT: https://kinhtedothi.vn/tu-gian-kho-den-khat-vong-hung-cuong.825701.html