Từ hòa bình, độc lập đến phát triển

Bất cứ quốc gia, dân tộc nào trên thế giới, hòa bình cũng là khát vọng thiêng liêng. Với Việt Nam, đó không chỉ là mục tiêu cuối cùng, một mục đích duy nhất, mà còn là nền tảng, động lực thôi thúc bao thế hệ người con yêu nước sẵn sàng xả thân, cống hiến và hy sinh vì Tổ quốc.

Từ cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 “nở hoa độc lập, kết trái tự do”, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đến nay, đất nước ta đã trải qua 80 năm không ngừng nỗ lực để từng bước hiện thực hóa khát vọng hòa bình, độc lập, thống nhất và phát triển.

Xây dựng một quốc gia hòa bình, độc lập

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Văn kiện lịch sử ấy không chỉ khẳng định trước quốc dân đồng bào và thế giới quyền độc lập, tự do, mà còn gửi đi một thông điệp mạnh mẽ về khát vọng sống hòa bình và quyền bình đẳng giữa các dân tộc.

Các lực lượng tham gia tập luyện diễu binh, diễu hành cho lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 tại thủ đô Hà Nội. Ảnh: INTERNET

Các lực lượng tham gia tập luyện diễu binh, diễu hành cho lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 tại thủ đô Hà Nội. Ảnh: INTERNET

Tuy nhiên, nền hòa bình non trẻ ấy bị đe dọa khi thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Nhân dân ta lại phải tiến hành một cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm chống thực dân Pháp (1945 - 1954). Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta vừa chiến đấu bảo vệ nền độc lập, vừa kiên trì đấu tranh ngoại giao để tìm kiếm giải pháp hòa bình.

Nhưng rồi, mọi sự nhân nhượng không mang lại lợi ích cho dân tộc, buộc nhân dân ta phải đứng lên kháng chiến, với tinh thần “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Cùng với Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954), Hiệp định Giơnevơ (21/7/1954) chấm dứt hoàn toàn sự đô hộ của chủ nghĩa thực dân cũ kéo dài gần 100 năm ở nước ta, mở ra một chương mới trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân ta.

Từ sau năm 1954, theo quy định của Hiệp định Giơnevơ, Việt Nam tạm thời chia thành 2 miền. Miền Bắc được giải phóng, bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và trở thành hậu phương lớn chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam. Miền Nam kiên cường, dũng cảm đấu tranh chống các hình thức, chiến lược chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và tay sai, để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là cuộc đụng độ lịch sử, là thử thách khốc liệt nhất của dân tộc ta trong thế kỷ XX. Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, dân tộc ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, hiểm nguy giữa đạn bom ác liệt để bảo vệ từng con người, từng tấc đất.

Trước thử thách khắc nghiệt ấy, cả dân tộc Việt Nam đã đồng tâm, đồng sức, đồng lòng đứng lên, không chỉ để tồn tại, mà để tỏa sáng một dân tộc chưa bao giờ chịu cúi đầu trước bão dông. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh đã giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, thu giang sơn về một mối, mở ra kỷ nguyên mới: Độc lập, thống nhất và cả nước cùng đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ máu lửa, tro tàn chiến tranh, Việt Nam đã “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”.

Hành trình 80 năm với một chặng đường dài qua bao nhiêu gian nan, thử thách nhưng cũng là một hành trình của những kỳ tích. Từ một đất nước bị đô hộ, không có tên trên bản đồ thế giới, Việt Nam đã giành độc lập, tự do, đã vươn lên hội nhập và phát triển. Hành trình ấy là thực tiễn sinh động chứng minh rằng, khát vọng vươn mình là mạch nguồn, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt làm nên sự chuyển mình qua bao khó khăn, thử thách. Khát vọng ấy không chỉ nằm ở những con số tăng trưởng, những chỉ số cạnh tranh, mà còn ở một xã hội hướng tới hạnh phúc, nơi mọi người đều có cơ hội phát triển.

Đổi mới và hội nhập

Sau khi đất nước thống nhất, khát vọng hòa bình chuyển thành nhiệm vụ giữ gìn hòa bình để kiến thiết đất nước. Tuy nhiên, giai đoạn này, Việt Nam phải tiếp tục đối mặt với quá nhiều khó khăn, thử thách. Thực tiễn đất nước 10 năm sau giải phóng đặt ra một yêu cầu bức thiết là phải đổi mới phương thức phát triển trở thành một yêu cầu sống còn. Muốn thoát được nghèo đói và phát triển, phải đổi mới. Năm 1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trong đó trọng tâm là đổi mới về kinh tế.

Đường lối đổi mới là bước ngoặt lịch sử, mở ra thời kỳ phát triển mạnh mẽ, khơi dậy tiềm năng, nguồn lực sáng tạo của toàn dân. Sau gần 40 năm đổi mới, bằng nhiều nỗ lực không ngừng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu vô cùng to lớn. Trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

Khát vọng vươn mình

Từ năm 1945 - 2015, hành trình hiện thực hóa khát vọng hòa bình, độc lập, tự do của Việt Nam là câu chuyện về ý chí, bản lĩnh thực hiện tư tưởng “Thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hòa bình, độc lập, tự do mà hôm nay chúng ta đang thụ hưởng là thành quả của máu, nước mắt, trí tuệ của nhiều thế hệ.

Tuyến metro số 1 Bến Thành - Suối Tiên được đưa vào vận hành và khai thác thương mại làm thay đổi lớn diện mạo TP. Hồ Chí Minh. Ảnh:PV

Tuyến metro số 1 Bến Thành - Suối Tiên được đưa vào vận hành và khai thác thương mại làm thay đổi lớn diện mạo TP. Hồ Chí Minh. Ảnh:PV

Khát vọng hòa bình hôm nay không chỉ dừng lại ở việc bảo vệ biên giới, chủ quyền quốc gia, mà còn hướng tới xây dựng một xã hội phát triển, nhân văn, an toàn và sáng tạo. Đó là sự kế thừa xứng đáng tinh thần của những thế hệ đã đi qua chiến tranh, để hòa bình mãi là hiện thực chứ không chỉ là khát vọng. Từ khoảnh khắc lịch sử Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 đến nay, mỗi chặng đường chúng ta đi đều ghi dấu những “câu chuyện hòa bình” với hàng loạt dấu ấn đáng nhớ, xứng đáng với sự hy sinh, với mồ hôi, máu và nước mắt mà cha ông ta đã đổ xuống.

Năm 2025 là một dấu mốc quan trọng để nhìn lại và khơi dậy khát vọng phát triển trong kỷ nguyên mới. Đất nước ta đang đứng trước nhiều thời cơ và thách thức mới.

Đó là, Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới với mục tiêu trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và nước phát triển vào năm 2045. Khát vọng vươn mình hôm nay là khát vọng và khả năng hội nhập sâu rộng, từng bước làm chủ khoa học công nghệ để chuyển đổi số, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế số và bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Hành trình 80 năm ấy là hành trình máu lửa và vinh quang của dân tộc Việt Nam. Hòa bình, độc lập, tự do không chỉ là thành quả của quá khứ, mà còn là nền tảng vững chắc cho hiện tại và tương lai. Hành trình 80 năm vẻ vang ấy là thực tiễn lịch sử sống động, khẳng định: Hòa bình, độc lập, tự do không tự nó đến, không tự nhiên có, mà phải gìn giữ bằng sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, trí tuệ và lòng nhân ái. Một khi khát vọng hòa bình đã thành hiện thực, nó sẽ trở thành bệ phóng, động lực, niềm tin để tiếp tục soi đường cho đất nước bước vào kỷ nguyên mới.

Với niềm tin vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, tinh thần đoàn kết toàn dân, ý chí kiên cường và trí tuệ, bản lĩnh Việt Nam, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin tưởng rằng, đất nước ta sẽ tiếp tục vươn lên mạnh mẽ để phát triển như Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu hằng mong đợi.

TRẦN TRUNG HIẾU

Nguồn Quảng Ngãi: https://baoquangngai.vn/tu-hoa-binh-doc-lap-den-phat-trien-56419.htm