Từ kỷ nguyên độc lập đến kỷ nguyên vươn mình: Dấu ấn 80 năm chính sách dân tộc
Trải qua 80 năm kể từ ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chính sách dân tộc không ngừng được hoàn thiện, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân - nền tảng vững chắc cho công cuộc giành độc lập, thống nhất và phát triển đất nước.
Chính sách dân tộc trong kháng chiến và kiến thiết đất nước
Ngay từ khi thành lập năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã xác định đại đoàn kết dân tộc là chiến lược lâu dài. Hiến pháp 1946, bản hiến pháp đầu tiên của Việt Nam, đã ghi rõ nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện rõ quan điểm bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc, khẳng định: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán... đều là con cháu Việt Nam”. Chính sách dân tộc luôn là nội dung xuyên suốt, nhất quán trong đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước.
Đảng và Nhà nước khuyến khích sử dụng tiếng nói, chữ viết của các dân tộc thiểu số (DTTS), cử đại biểu người DTTS tham gia Quốc hội, ban hành chính sách giáo dục, y tế phù hợp với vùng DTTS.
Giai đoạn 1954–1975, nhiều chính sách được triển khai như cải cách ruộng đất, xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, phổ cập giáo dục và chăm sóc y tế vùng DTTS...
Đồng bào DTTS đóng vai trò to lớn trong kháng chiến chống Mỹ, bảo vệ tuyến đường Trường Sơn, đường Hồ Chí Minh. Các khu căn cứ cách mạng gắn liền với sự đoàn kết máu thịt giữa quân dân và đồng bào DTTS.
Thời kỳ này không chỉ ổn định kinh tế - xã hội vùng DTTS mà còn tạo động lực to lớn trong sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau năm 1975, đất nước thống nhất nhưng chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh. Các vùng DTTS đối mặt với nhiều khó khăn. Đảng và Nhà nước triển khai các chương trình tái thiết: Di dân, lập vùng kinh tế mới, hỗ trợ sản xuất, mở lớp xóa mù chữ, xây dựng trạm y tế.
Tuy nhiên, một số chính sách còn thiếu phù hợp với điều kiện tự nhiên, văn hóa và tập quán của đồng bào DTTS. Một số mô hình phát triển chưa hiệu quả, thiếu tính linh hoạt. Hệ thống cán bộ cơ sở còn yếu, nguồn lực quốc gia cũng hạn chế.
Dù vậy, giai đoạn này đã cung cấp nhiều bài học thực tiễn, là tiền đề quan trọng cho quá trình đổi mới tư duy chính sách dân tộc từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 năm 1986.

Tư duy và cách tiếp cận chính sách dân tộc đã thay đổi rõ rệt, từ hỗ trợ đơn thuần sang phát triển toàn diện, từ phương thức hành chính sang chú trọng nội lực và phát triển bền vững vùng đồng bào DTTS và miền núi. Ảnh: Thạch Thảo
Đổi mới và phát triển bền vững vùng DTTS
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 đánh dấu bước ngoặt lớn trong tiến trình phát triển đất nước với công cuộc Đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Giai đoạn 1986-2025, tư duy và cách tiếp cận chính sách dân tộc cũng thay đổi rõ rệt, từ hỗ trợ đơn thuần sang phát triển toàn diện, từ phương thức hành chính sang chú trọng nội lực và phát triển bền vững vùng đồng bào DTTS và miền núi.
Tư duy phát triển bền vững gắn với đặc thù vùng, dân tộc và văn hóa bản địa được thể hiện rõ qua các chính sách, chương trình ngày càng đồng bộ và sâu rộng. Một dấu mốc quan trọng là Chương trình 135, với mục tiêu hỗ trợ các xã đặc biệt khó khăn về cơ sở hạ tầng, sinh kế và nâng cao năng lực cán bộ. Nhờ chương trình này, nhiều bản làng vùng sâu, vùng cao, vùng DTTS đã có điện, đường, trường, trạm, góp phần đáng kể vào giảm nghèo và nâng cao đời sống đồng bào DTTS.
Tiếp đó, Chương trình 30a kế thừa và mở rộng tác động của chính sách dân tộc, tiếp cận đa chiều trong giảm nghèo: Không chỉ cung cấp lương thực mà còn hỗ trợ y tế, giáo dục, thông tin, đất ở, đất sản xuất và tạo sinh kế bền vững.
Giai đoạn 1986-2025 đánh dấu sự chuyển biến căn bản và toàn diện trong chính sách dân tộc: Từ hỗ trợ đơn lẻ sang phát triển đồng bộ, từ xóa đói giảm nghèo sang phát triển bền vững và bao trùm. Những thành quả đạt được là kết tinh của nỗ lực Nhà nước và tinh thần đoàn kết, tự lực tự cường của đồng bào DTTS trên khắp cả nước.
Đặc biệt, từ năm 2019 trở lại đây, chính sách dân tộc có bước tiến nổi bật với Nghị quyết số 88/2019 của Quốc hội khóa 14, phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030.
Lần đầu tiên, Việt Nam có Chương trình mục tiêu quốc gia riêng biệt dành cho vùng DTTS, với nguồn lực hàng trăm nghìn tỷ đồng, tập trung vào 10 dự án trọng tâm như: Quy hoạch dân cư, phát triển giáo dục, y tế, kinh tế hộ gia đình, bảo tồn văn hóa, và xây dựng đội ngũ cán bộ là người DTTS. Đây là minh chứng cho cam kết mạnh mẽ của Đảng, Nhà nước trong việc đảm bảo không ai bị bỏ lại phía sau.
Đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào DTTS đã có chuyển biến tích cực. Tỷ lệ hộ nghèo giảm đáng kể qua từng giai đoạn. Hệ thống giáo dục được mở rộng, nhiều học sinh DTTS có cơ hội học tập tại các trường nội trú, bán trú. Y tế cơ sở được tăng cường, đặc biệt ở vùng sâu vùng xa; công tác chăm sóc sức khỏe, phòng chống dịch bệnh có nhiều tiến bộ. Hệ thống giao thông liên bản, liên xã ngày càng hoàn thiện, thúc đẩy giao thương và phát triển kinh tế địa phương.
Song song với phát triển kinh tế - xã hội, chính sách văn hóa cũng được đẩy mạnh nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc. Nhà nước khuyến khích đồng bào sử dụng tiếng nói, chữ viết của mình, phát triển giáo dục song ngữ. Nhiều lễ hội truyền thống, nghề thủ công, trang phục, nhạc cụ và điệu múa dân tộc được phục dựng và quảng bá rộng rãi. Các chương trình truyền hình, phát thanh bằng tiếng DTTS được duy trì, góp phần nâng cao lòng tự hào văn hóa trong cộng đồng.
Tinh thần “Đại đoàn kết toàn dân tộc” đã trở thành thực tiễn sinh động trong đời sống chính trị - xã hội. Đồng bào DTTS không còn là đối tượng thụ hưởng đơn thuần mà ngày càng thể hiện vai trò chủ thể trong phát triển. Nhiều cán bộ DTTS giữ vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Chính sách dân tộc ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội và chính trị, quốc phòng, an ninh
Thành tựu và thách thức hiện nay trong công tác dân tộc
Trải qua 80 năm phát triển, đặc biệt từ sau công cuộc Đổi mới năm 1986, chính sách dân tộc ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội và chính trị, quốc phòng, an ninh.
Trong thành tựu chung đó, từ Nha Dân tộc thiểu số (1946) đến Bộ Dân tộc và Tôn giáo (2025) là sự phát triển vượt bậc về chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức. Đây là cơ quan chuyên trách giúp Chính phủ xây dựng, hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc.
Việc thành lập Bộ Dân tộc và Tôn giáo không chỉ là sự kiện có ý nghĩa tổ chức mà còn thể hiện cam kết mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước trong việc nâng tầm công tác dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện, bền vững trong giai đoạn mới.
Bộ Dân tộc và Tôn giáo hiện nay đang triển khai nhiều chương trình quan trọng như Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030, tạo cơ hội thúc đẩy chuyển đổi vùng DTTS từ “vùng trũng” thành vùng phát triển.
Tuy nhiên, công tác dân tộc hiện nay còn đối mặt nhiều thách thức. Khoảng cách phát triển giữa vùng đồng bào DTTS và đô thị vẫn lớn, thể hiện qua thu nhập, giáo dục, y tế và khả năng tiếp cận dịch vụ công.
Một số khu vực còn tái nghèo, thiếu việc làm ổn định. Việc bảo tồn văn hóa truyền thống gặp khó do đô thị hóa, văn hóa ngoại lai và sự thờ ơ của một bộ phận giới trẻ. Giáo dục vùng DTTS chưa đồng đều, thiếu giáo viên, cơ sở vật chất xuống cấp. Y tế cơ sở còn yếu, đặc biệt trong chăm sóc sức khỏe sinh sản và phòng chống dịch. Biến đổi khí hậu, thiên tai, suy giảm tài nguyên ảnh hưởng nặng nề đến đời sống đồng bào, nhất là vùng núi cao, ven biển dễ sạt lở, hạn hán, lũ quét.
Ngoài ra, các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chia rẽ, gây mất đoàn kết và ảnh hưởng đến an ninh, trật tự xã hội.
Dù còn nhiều khó khăn, thách thức, song tiếp nối những thành tựu đạt được trong 80 năm qua, chính sách dân tộc ngày càng được hoàn thiện, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi.
Bước vào kỷ nguyên phát triển mới, với các chương trình mục tiêu quốc gia và sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Dân tộc và Tôn giáo, vùng DTTS tiếp tục có thêm nhiều chuyển biến tích cực.
Chính sách dân tộc sẽ tiếp tục góp phần thúc đẩy phát triển bền vững, giữ gìn bản sắc văn hóa, nâng cao chất lượng cuộc sống và thực hiện hiệu quả mục tiêu “không để ai bị bỏ lại phía sau” trong tiến trình phát triển đất nước.
Chính sách dân tộc của Việt Nam trong suốt 80 năm qua đã thể hiện tầm nhìn chiến lược và sự kiên định của Đảng, Nhà nước trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, thúc đẩy phát triển hài hòa giữa các dân tộc, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc luôn là kim chỉ nam cho mọi chính sách dân tộc.